(Tiếp theo kỳ 12 và hết)
Hành trình của con tàu trong chuyến thăm quần đảo Trường Sa tháng 5 đã khép lại vào lúc 16h30’ ngày 11/5/2008, nhưng với tôi, cuộc hành trình trong suy nghĩ, trong cảm nhận thì vẫn còn, nó vẫn tiếp tục, có khi mãnh liệt, có khi thâm trầm len vào trong suy tư, trăn trở, lẫn vào trong từng công việc, vào trong cuộc sống.
Có thể nói, mấy ngày qua bất kỳ ở đâu hay khi đụng tới việc gì, thì ngay lập tức trong đầu nảy ra suy nghĩ, nảy ra so sánh, giữa việc này với việc kia, giữa những gì mình đã thấy, đã nghe đã cảm về người lính, về cuộc sống, về ý chí, niềm tin, cách sống, cách ứng xử của họ, với cái đã và đang diễn ra trước mắt mình, trước cuộc sống của mình. Đôi khi từ cái cảm nhận ấy mình lại tự mang hình ảnh của người lính đảo ra để cảm nhận, để so sánh, để xem, kể cả so sánh với chính mình, với chính công việc của mình. Họ như thế, trẻ như thế, mà họ vượt lên một cách tự tin như thế thì mình cần phải làm gì để tốt hơn nữa chứ. Rồi thì đôi lúc thấy lòng mình lắng lại, nhớ Trường Sa Lớn, nhớ các cháu nhỏ mà hôm các đoàn đại biểu đến, các cháu đang ngồi trên những chiếc xe đạp, đón các bác, các cô, các chú, rồi khi các bác, các cô, các chú cho kẹo, cho bánh các cháu, các cháu cảm ơn rối rít… Bây giờ chúng nó đang làm gì? Có đứa nào đau bệnh không? Hè này có học thêm không? Còn cô giáo mà mình đã gặp, có lúc nào nhớ anh em mình không? Rồi lại nhớ đảo Đá Tây, nhớ cái buổi chiều chia tay sao mà buồn đến thế! Buồn thật. Một cái buồn mênh mang, khó tả. Rồi thì nhớ mấy chú chó. Thực tình ở phần ghi chép đã qua tôi không một lần dám nhớ, dám nghĩ, dám đề cập tới nó, vì thấy nó quá tội.
Tôi vẫn biết qua các anh nói, nó chính là nguồn thực phẩm quý của lính đảo trong những tháng quần đảo phải đối mặt với bão giông. Biết vậy, số phận của nó là vậy, mình có thương nó cũng phải như thế thôi. Thế mà thương thì cứ thương, tội thì cứ tội. Lúc đó tôi lại nghĩ tới con “Nhúc nhích” con “Mi lu” nhà mình, nó sống với gia đình mình như vậy là quá hạnh phúc rồi. Ai cũng thương, ai cũng mến nó, đặc biệt là Đô Em, Đô Út, Phúc Nhân, Xin, mẹ Đô Em, dượng Bốn, cô Bốn và nhất là bà nội Đô Em lúc còn sống.… Tôi nghĩ mình thương nó như thế nào thì nó cũng thương mình lại như thế. Bởi thế mà lúc bà nội bị bệnh phải nằm bệnh viện dài ngày, khi đỡ, lại đưa bà Nội về nhà, những lúc như thế con “Nhúc nhích” nó mừng hết biết. Còn cái đêm, khi đưa bà nội trở về từ Chợ Rẫy, con “Nhúc nhích” nó tưởng bà nội còn sống, đang đặt bà nằm trên chiếc giường của bà ở giữa nhà, thế là nó nhanh chóng nhảy lên, mà không ai kịp giữ lại được, nó mừng, nó liếm hết tay đến mặt, như những lúc trước kia, bà từ bệnh viện trở về. Có thể nói, cũng như các con chó trước, bây giờ cả hai con này cũng được cưng chiều hết mực. Ở nhà ăn cái gì thì nó ăn cái đó, không cho nó tự nhiên cảm thấy như mình có lỗi. Đặc biệt, mỗi khi đi làm về, bất kỳ ai, nhất là những đợt đi công tác dài ngày trở về, dù nửa đêm hay gà gáy, hai con “cún” bật dậy trước nhất, nhanh nhất, quấn qua, quấn quít, lăng xăng, lít xít, cái đuôi thì quắt qua, quắt lại liên tù tì như chong chóng, nó cố tỏ lòng mình với chủ, mà nó mừng thật. Còn ở các đảo, khi đoàn mình đến, hàng chục chú chó chạy ra, nhào luôn xuống mép nước để mừng, rối ra, rối rít, chạy ra, chạy vào, cũng xăng xí xò, mà đâu đã quen, đã biết, đâu đã gặp lần nào. Thế mà nó mừng, mừng lắm, mừng mà không cần phân biệt người đó là ai, cứ thế mà mừng cái đã. Rồi khi chia tay Đá Tây, rất tiếc là tôi rời đảo trong chuyến đầu tiên, nên không nhìn thấy được cái cảnh tượng vô cùng xúc động mà Đức Thuận, Hoàng Thành, Hồng Thái kể lại, đó là khi chuyến thứ hai đưa các đại biểu rời đảo, thì có đến 3, 4 chú chó bơi theo, bơi theo, cho đến khi bơi không được nữa, nó đành quay trở lại. Nghe như thế, nước mắt tôi nó cứ trào ra. Tôi nghĩ trên đời này, trong cuộc sống này, có rất nhiều con vật để mà thương, mà quý, nhưng theo tôi con chó là loại đáng thương, đáng quý nhất. Bởi nó là con vật trung thành nhất. Tôi còn nhớ cách đây mấy năm, tôi có đọc một bài văn ngắn đăng trên báo, mà hình như Hữu Bình - Sở Văn hoá thông tin hồi đó thấy hay quá nên phôtô gởi cho tôi. Theo lời dẫn của báo, thì đây là bài văn hay nhất trong vòng một nghìn năm trở lại đây của nhân loại. Đó là toàn văn lời bào chữa của luật sư trước số phận của một con chó, hình như con chó bị buộc tội gì đó, trước một phiên toà ở Mỹ. Ông nói rằng, có thể nó có vi phạm, nhưng cái vi phạm của nó là theo bản năng, là vô thức. Song với nó, nó đối với chủ nó thì không còn gì phải bàn cãi nữa. Nó trung thành với chủ nó, cả khi chủ nó đang ngất ngưởng trên tột đỉnh vinh quang và cả khi chủ nó đã hoàn toàn rơi xuống đáy xã hội. Đối với nó lòng trung thành là vô điều kiện.
Rồi thì nhớ Phan Vinh, An Bang, Tiên Nữ và đặc biệt quá nhớ nhà giàn Quế Đường DK1, quá nhớ những người anh em ở trên nhà giàn ngàn lần mến thương đó. Lại nghĩ không biết từ hôm đó đến giờ, theo lời hứa của Chuẩn đô đốc là sẽ gởi quà ra ngay sau đó cho anh em theo con tàu C71 đã được thực hiện chưa? Vì cứ lo là ý kiến của Thủ trưởng là thế, nhưng khi vào đến đất liền, nhiều việc quá, bộ phận thừa hành đôi lúc cũng dễ quên. Rồi không biết Biện Văn Quân mấy ngày nay như thế nào? Quân có biết lá thư của Quân, anh em mang về đã được đưa đến tận gia đình bố mẹ Quân chưa. Còn anh Trần Văn Long, Nông Văn Đình, Nguyễn Tuấn Thương ở trạm khí tượng - hải văn Trường Sa Lớn, các anh có biết mấy hôm nay mình chưa lúc nào rời khỏi ti vi khi đài thông báo tình hình thời tiết khu vực hai quần đảo. Bởi qua chuyến đi mình biết thêm rằng, trong các bản tin đó, có sự góp phần rất đáng kể của anh em Phú Yên của mình trên trạm khí tưởng - hải văn Trường Sa Lớn.
Còn nữa, mấy tấm ảnh chụp chung với các anh chị đoàn Phú Yên và của từng đồng chí thì đã được Đức Thuận đưa tận tay cho chị Ngân vợ anh Long, để nhờ chị Ngân chuyển đến gia đình anh Đình, anh Thương theo ước nguyện của anh em ngoài đó. Không biết mấy bữa nay chị Ngân có gọi điện cho anh Long ngoài đó biết chưa. Nghe Hoà An kể lại là Hoà An chưa có điều kiện gặp trực tiếp nhưng có gặp chi Ngân qua điện thoại. Chị Ngân có nói là mỗi lần gọi ra cho anh Long tốn tiền lắm, một cuộc gần hết cái card năm mươi ngàn đồng, nhưng nhớ quá vẫn phải gọi. Nghe mà thật là thương, thật là tội. Còn trong cái “dịch vụ” đưa thư này, ngoài Đức Thuận, Hoàng Thành ra, Kiều Hưng cũng là một trong những nhân tố rất tích cực trong vai trò “ngoại giao con thoi”, nối sợi dây tinh thần giữa đảo với đất liền, giữa đất liền với đảo. Các anh em Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tham gia chuyến đi còn chuyển được hàng chục lá thư của anh em các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hà
Mấy hôm nay, khi tu chỉnh lại phần ghi chép này, hễ đụng tới vấn đề nào có vẻ cụ thể như là con số, sự kiện, ngày giờ chẳng hạn, thì tôi đều nhờ Huyền điện vào Thành phố Hồ Chí Minh gặp anh Tú, để nhờ anh ấy cung cấp giúp, sợ bị sai, bị lệch và anh đã hết lòng giúp đỡ. Anh là Phạm Huy Tú- Đại tá - Trưởng phòng dân vận Bộ Tư lệnh Hải quân, người mà suốt một tháng trước chuyến đi là đầu mối chính để các tỉnh liên lạc, hỏi han điều này, điều khác, từ việc tiền nong đến quà cáp, từ chuyện ăn, nghỉ đến ngày giờ…Tất cả đều phải qua anh Tú. Anh Tú hiền từ và rất thật. Tôi cứ nghĩ, Bộ Tư lệnh Hải quân đã chọn đúng người để làm Trưởng phòng dân vận Binh chủng. Quả đúng thế thật. Anh là đầu mối và bởi thế, anh cũng là người được phân công đón đoàn Phú Yên vào thành phố Hồ Chí Minh đúng ngày 30/4/2008, để chiều 01/5 họp các đoàn và ngày 02/5 lên tàu thực hiện nhiệm vụ.
Chính cái chi tiết vô cùng thú vị mà cho đến bây giờ không nói không được và cũng chính cái chi tiết đó cộng với suốt mười ngày cùng với anh trên con tàu HQ 996 tôi mới rút ra một kết luận rằng, nhận định của mình là đúng, rằng anh đúng là con người của dân vận.
Anh trực trước cổng 01 Tôn Đức Thắng- thành phố Hồ Chí Minh ngay từ 5 giờ chiều 30/4/2008 để đón đoàn Phú Yên vào. Nếu như đúng hẹn thì lúc đó cũng vừa tầm ăn cơm chiều. Hậu cần của Bộ Tư lệnh cũng đã chuẩn bị cơm nước đâu đó đàng hoàng rồi. Vì theo Huyền thông báo là đoàn Phú Yên xuất phát lúc 7h sáng, thì chậm nhất là 17h thế nào đoàn sẽ có mặt ở 01 Tôn Đức Thắng theo triệu tập. Thế nhưng cái “sự cố” bất ngờ xuất hiện ngay trên đường đi, một phần là vì trời mưa quá to, mưa mù trời, mù đất, bác tài Tuyên cũng không thể nào chạy nhanh hơn được nữa và vì câu chuyện này, câu chuyện khá thú vị là không biết tin tức thế nào, anh Thảo bạn chị Tô Hà đâu hồi còn học cấp 3 ở Hải Dương, nghe tin chị Hà trên đường vào Thành phố Hồ Chí Minh để đi thăm cán bộ, chiến sỹ trên quần đảo Trường Sa, thế là anh Thảo điện thoại ríu rít, nằng nặc mời chị Hà và cả đoàn Phú Yên vào nhà anh chơi. Điện mời rồi nhưng cũng chưa tin, vì sợ trời mưa anh em bàn lui. Thế là anh Thảo đội áo mưa, đi xe máy ra tận Quộc lộ 1A, trước mặt UBND huyện Trảng Bom để đón. Anh em thấy anh Thảo nhiệt tình quá nên quyết định vào. Thực tình mình nghĩ chắc là vào thăm chơi qua quít, uống miếng nước rồi đi, nào ngờ vừa vào đã thấy gia đình chuẩn bị đầy đủ một tiệc “liên hoan” đúng nghĩa. Nào gà luộc,
Bây giờ, ngồi viết lại “sự cố “này, nếu anh Tú đọc được chắc là anh cười cho một trận thoả thích….
Và rồi dù cho có chạnh lòng đến đâu đi nữa thì cũng đã đến lúc phải nói lời chia tay, nói lời tạm biệt…Đó là đoạn văn của ghi chép khi phải chia tay với nhà giàn Quế Đường DK1…Còn giờ đây, tôi muốn mượn lời văn ấy để tạm kết ghi chép này - Ghi chép “CẢM NHẬN TRƯỜNG SA”- Và cũng chỉ là ghi chép, cũng chỉ là những cảm nhận ban đầu, chợt nhìn, chợt nghe, chợt ghi, có cái rất vội, chưa kịp kiểm tra, chưa kịp chỉnh sửa…Vì thế chắc không thể nào tránh được sơ xuất. Cho nên, từ đáy lòng mình, từ trong suy nghĩ chân thành của mình, rất mong bạn đọc, bạn nghe đài gần xa rộng lòng thông cảm.
Song, có một điều rất mừng mà tôi cũng muốn chia xẻ đó chính là ngay sau ngày 8/6/2008, chương trình Văn nghệ chủ nhật của Đài Phát thanh Phú Yên bắt đầu phát phần ghi chép “Cảm nhận Trường Sa” của tôi và qua giọng đọc của chính tác giả, tôi đã nhận được một lá thư chí tình, chí nghĩa của một người chưa bao giờ quen biết đang công tác tại UBND xã Hoà Thịnh, anh có tên là Vũ Hoàng Giang. Thật sự lá thư là nguồn cổ vũ vô cùng đối với một người đang “bập bẹ” viết lách như tôi và tiếp theo những ngày sau đó, khi Báo Phú Yên quyết định đăng ghi chép “Cảm nhận Trường Sa” nhiều kỳ của tôi, đều đặn mỗi ngày một số trong tuần, nhiều đồng chí, đồng đội, nhiều anh em chiến hữu, nhiều bè bạn gần, xa…Hoặc là trực triếp hoặc là gọi điện thoại, hoặc nhắn tin chúc mừng tôi. Tất cả, tất cả là những lời động viên chân thành, hết mực. Tôi mừng, vợ tôi, cô Bích em tôi nghe được cũng mừng, mấy thằng cu nhà tôi, nghe lõm câu chuyện của người lớn cũng tủm tỉm cười, bảo rằng ông Ba nay còn là “Nhà văn” nữa chứ!!!
Tạm biệt, xin chào tạm biệt, xin chào với nỗi lòng thương nhớ Trường Sa, thương nhớ những linh hồn không bao giờ mất, thương nhớ những người anh em ruột thịt. Xin chào, xin cảm ơn tự đáy lòng mình đối với Thanh Huyền, Đức Thuận, Kiều Hưng, Hồng Thái, Đắc Hoa, Trình Kế, Quốc Khương, Tấn Lộc, Phương Trà… và rất nhiều, rất nhiều anh em nữa những người hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp giúp tôi đưa “Cảm nhận Trường Sa” đến được với biết bao người…
Xin ôm hôn tất cả những người anh em thân thiết, những khúc ruột không bao giờ chia cắt nơi xa thẳm vô bờ trên quần đảo Trường Sa!.
Tuy Hoà, chiều ngày 02/7/2008.
VŨ VĂN THOẠI