Thứ Bảy, 21/09/2024 12:35 CH
Lễ cưới theo nghi thức truyền thống của người Chăm H’roi ở Phú Yên:
Những giá trị văn hóa cần bảo tồn và phát huy
Thứ Năm, 10/11/2011 08:00 SA

1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI CHĂM

 

Người Chăm ở Việt Nam có dân số khoảng trên 130 nghìn người. Dựa vào địa bàn cư trú và tôn giáo, một số nhà nghiên cứu chia thành ba nhóm: Nhóm cộng đồng Chăm H’roi ở Bình Định, Phú Yên, có khoảng 22.000 người (không theo tôn giáo nào); nhóm cộng đồng Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận gồm (Chăm Bàlamôn – Ahiêr, Bàni – Awal) có khoảng 88.000 người; nhóm cộng đồng Chăm ở Nam Bộ (Chăm IsLam) có khoảng 25.000 người, cư trú đông nhất ở Châu Đốc – An Giang, ở TP Hồ Chí Minh và rải rác ở các tỉnh như Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh...Tại Phú Yên người Chăm H’roi sinh sống chủ yếu ở ba huyện miền núi là Đồng Xuân, Sơn Hòa và Sông Hinh với khoảng gần 20.000 nhân khẩu. Cùng với người Êđê, người Bana, người Chăm H’roi được xem là những tộc người có quá trình định cư lâu dài tại Phú Yên. Trong lịch sử phát triển, người Chăm H’roi đã sáng tạo ra một nền văn hóa vật chất và tinh thần phong phú, đa dạng mang bản sắc riêng của tộc người mình. Đó là các sử thi, trống đôi, công ba, chinh 5, múa Tahara, các lễ hội... Đặc biệt lễ cưới theo nghi thức truyền thống của người Chăm H’Roi ở Phú Yên thể hiện rõ nét sắc thái văn hóa theo tín ngưỡng vòng đời người.

 

Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu, sinh sống cận cư và xen cư giữa tộc người Chăm H’roi ở Phú Yên với các tộc người khác, nhất là người kinh. Và đáng chú ý hơn là thời kỳ mở rộng giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, trước sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự xâm nhập của các ấn phẩm văn hóa độc hại đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến thuần phong mỹ tục của người Chăm H’Roi ở Phú Yên. Hội nhập nhưng không hòa tan nhằm bảo tồn và phát huy sự đa dạng văn hóa tộc người là vấn đề đang được quan tâm hàng đầu không chỉ của một quốc gia, dân tộc và Phú Yên cũng không là ngoại lệ. Theo đó nhiều phong tục, tập quán mang giá trị truyền thống tốt đẹp trong lễ cưới theo nghi thức truyền thống của người Chăm H’Roi ở Phú Yên rất cần được bảo tồn và phát huy, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người đang dần mai một.

 

2. LỄ CƯỚI THEO NGHI THỨC TRUYỀN THỐNG CA NGƯỜI CHĂM H’ROI Ở PHÚ YÊN

 

Hôn nhân là việc hệ trọng của cuộc đời mỗi con người. Để thành vợ, thành chồng, trai gái người Chăm H’roi ở Phú Yên đến tuổi trưởng thành có quyền tự do tìm hiểu, yêu đương. Dẫu không có quan niệm như người Kinh là “lấy vợ coi tông, lấy chồng kén giống”, nhưng người Chăm H’roi không vì thế mà xem nhẹ yếu tố gia đình, tộc họ và những lễ thức cưới xin mang bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

 

Công việc cho đám cưới của cô dâu và chú rể thật bận rộn. Trước một thời gian, cả nhà trai và nhà gái đều có sự chuẩn bị khá kỹ đồ ăn, thức uống, trang phục, nhạc cụ và các đồ dùng cần thiết phục vụ cho đám hỏi, đám cưới. Khác với người Kinh, và kể cả với người Chăm theo Bàlamôn giáo hoặc người Chăm IsLam; việc hỏi cưới của dân tộc Chăm H’roi cùng lúc diễn ra trong một ngày, lễ cưới chỉ được tiến hành khi họ đàng trai và đàng gái hoàn tất các nghi thức cúng tế gia tộc đón dâu, bắt rể theo truyền thống.

 

Trước khi diễn ra lễ hỏi một ngày, gia đình của cô dâu mổ 4 con gà, mỗi con từ 1,5 kg đến 2 kg để làm 4 lễ cúng, cúng Yàng, thần núi - thần sông suối, cúng các bác, cúng ông bà tổ tiên (Roc set ket tia, giang chơ ơ, giang ca, giang san...).

 

Trước lúc cắt tiết con gà, gia chủ có lời xin lỗi và khẩn cầu các thần linh, lời khấn vái:

 

- “ Tao xin lỗi mày, vì tao có việc cầu xin các đấng thần linh, ông bà tổ tiên về chuyện hôn sự của con... nên tao phải giết mày”.

 

Trong tâm thức của thầy cúng, khi giết những con vật vô tội thì mình trở thành người có tội. Nhưng đây là những việc chính đáng, những việc phải làm, với quan niệm “sinh vật dưỡng nhân”. Vì thế trước lúc giết con vật, người cúng nói rõ lý do cũng như ý nghĩa việc mình phải làm, nó là vật hiến tế linh thiêng để tạ ơn “cha trời, mẹ đất”. Mong Yàng, các vị thần linh, các bác và ông bà tổ tiên phù hộ cho ngày đám hỏi, đám cưới của con... được suôn sẻ, không trắc trở gì.

 

* Các lễ cúng trước ngày hỏi, cưới: Trình tự có 4 lễ

 

Thứ nhất, là lễ cúng các Yàng, các vị thần trời, thần đất, thần núi, thần nước. Lễ vật cúng được xếp trên một chiếc mâm đồng, đặt ở vị trí gian giữa nhà. Đầu gà quay về hướng đông. Sắp xếp xong lễ vật, thầy cúng đốt khoanh đèn sáp ong đã được đặt trên một cái đĩa nhỏ. Khi ngọn đèn tỏa sáng thầy cúng bắt đầu các nghi lễ cúng. Trước Yàng, các vị thần đất, thần núi, thần nước, thầy cúng nói lời cầu khẩn:

 

- “ Theo ưng thuận của con...và thằng ..., hôm nay, gia đình..., cha đẻ của ...(bên gái), có sắm lễ vật cúng, xin phép báo tin cho Yàng, các thần sông, thần suối, thần núi biết: nội nhật ngày mai, gia đình ....(nhà gái) tổ chức đám hỏi, đám cưới của con... và thằng..., cầu mong Yàng và các vị thần linh về chung hưởng lễ vật, chứng giám cho gia đình ...(nhà gái) và phù hộ chuyện hôn nhân của đôi trẻ - con ... và thằng... được suôn sẻ, hạnh phúc”.

 

Trong khi thực hiện nghi thức cúng, thầy cúng dùng tay nhúm một nhúm gạo trong bát gạo, vãi lên khoảng không cao hơn đầu người ngồi, miệng luôn cầu khấn những điều tốt lành cho đôi trai gái. Sau đó xin keo rồi chuyển qua lễ cúng thứ hai. Lễ vật cúng, vị trí đặt mâm cúng tương tự như lễ thứ nhất. Đây là lễ cúng vong hồn các bác, những vong hồn “kẻ chết sông chết suối, người chết bụi chết bờ” lưu lạc không nơi nương tựa. Theo quan niệm vì là vong hồn không ai giỗ vải, thờ tự nên họ rất nghèo khổ, đói rách, mỗi khi thấy có đám giỗ, đám tiệc là thường kéo tới chờ đợi xin ăn. Nếu không được cho ăn uống tử tế, các vong hồn này thường phá phách, kêu la. Sợ hỏng việc lớn, nhất là việc hệ trọng như hôn nhân. Nên trước khi tiến hành gia chủ phải có mâm cúng âm hồn, vong hồn các bác. Trước lễ vật cúng, thầy cúng nói lời khẩn cầu:

 

- Sau khi cúng Yàng, các thần linh nhà gái có lễ vật cúng vong hồn các bác, xin phép báo tin cho vong hồn các bác biết, là ngày mai, gia đình có đám hỏi, đám cưới của con... và thằng..., hôm nay mời vong hồn các bác về chứng giám lễ vật cúng của gia đình. Khi hưởng xong lễ vật cúng, các bác đi nơi khác, đừng quấy rối, phá phách gì gia đình... Với lời khấn “ăn của người phù trợ cho người”, cầu mong chuyện hôn nhân của con... và thằng... được vuông tròn, hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

 

Khi thực hiện nghi thức cúng, thầy cúng dùng tay nhúm một nhúm gạo, muối trong bát, vãi lên không cao hơn đầu người ngồi, miệng luôn cầu khấn những điều tốt lành cho đôi trai gái. Sau đó thầy cúng xin keo rồi chuyển qua lễ cúng thứ ba. Lễ vật cúng, vị trí đặt mâm cúng cũng như lễ thứ nhất, lễ thứ hai. Đây là lễ hú hồn. Lễ thứ ba có khác hai lễ trước là khi thực hiện nghi thức cúng thì có sự hiện diện của cha mẹ ruột và người con gái chuẩn bị lấy chồng. Thầy cúng nói:

 

- “Trước sự chứng giám của các Yàng, các vị thần linh, về chuyện hôn nhân của con ...và thằng.... Hôm nay, vợ chồng ...và con ...đều có mặt tại đây, mọi người đều đồng ý và mong muốn cho con ...và thằng... nên vợ nên chồng. Việc này là do hai đứa tự nguyện tìm hiểu, không phải gia đình ép buộc. Khi nên vợ thành chồng thì sướng khổ có nhau, khi sung sướng cũng như lúc khổ đau, chúng nó cùng gánh vác, chia sẻ”.

 

Ý nghĩa lễ cúng này thể hiện sự tự do trong hôn nhân của trai gái người Chăm H’roi, rất được đề cao, sự đồng tình của cha mẹ và con gái trong việc cưới là điều kiện rất cần thiết cho hạnh phúc lâu dài của gia đình trẻ.

 

Tương tự như hai lễ trên, khi thực hiện nghi thức cúng, thầy cúng dùng tay nhúm một nhúm gạo, muối trong bát, vãi lên không cao hơn đầu người ngồi, miệng luôn cầu khấn những điều tốt lành cho đôi trai gái. Sau đó xin keo rồi chuyển qua lễ cúng thứ tư. Lễ thứ tư là lễ cúng ông bà, tổ tiên, cúng thần nhà, thần cửa chứng giám cho việc hôn nhân của con cháu trong gia đình. Lễ vật cúng, vị trí đặt mâm cúng cũng không khác gì như ba lễ trước.

 

Lễ cúng này hàm chứa nhiều giá trị truyền thống văn hóa chung của các gia đình Việt Nam. Đó là những giá trị tâm linh, sợi dây liên kết giữa những người đang sống với người quá cố. Mối quan hệ liên quan đến cái thiêng, dùng cái thiêng để dạy dỗ con cháu, củng cố gia đình qua các nghi lễ thờ cúng ông bà, tổ tiên. Tương tự như người Việt, người Chăm H’roi ở Phú Yên cho rằng sống với con cháu, chết về với ông bà tổ tiên (sống và chết vẫn ở trong gia đình) do đó việc cúng ông bà tổ tiên là rất hệ trọng. Mỗi khi trong gia đình có việc lớn như giỗ, tết, cưới hỏi, sửa sang nhà cửa đều phải báo cho ông bà, tổ tiên biết.

Trước vong hồn ông bà, tổ tiên, các vị thần nhà, thần cửa, thầy cúng nói lời khẩn cầu:

 

- “Theo ưng thuận của con ...và thằng ..., hôm nay, con cháu trong gia đình có sắm lễ vật cúng, xin phép báo tin cho ông bà, tổ tiên, các vị thần nhà, thần cửa biết, là ngày mai gia đình có đám hỏi, đám cưới của con ...và thằng ..., cầu mong ông bà, tổ tiên, các vị thần nhà, thần cửa về chung hưởng, phù hộ cho chuyện hôn nhân của con ...và thằng ... được suôn sẻ, hạnh phúc”.

 

Sau đó cũng như các lễ cúng trước, thầy cúng dùng tay nhúm một nhúm gạo, muối trong bát vãi lên không cao hơn đầu người ngồi, miệng luôn cầu khấn những điều tốt lành cho đôi trai gái. Sau đó xin keo rồi kết thúc lễ cúng.

 

Cả 4 lễ cúng trong lễ cưới theo nghi thức truyền thống của người Chăm H’roi ở Phú Yên đều có một chi tiết khá độc đáo đó là lễ xin keo. Đây là lễ thức không thể thiếu trong các lễ cúng việc hôn nhân của trai gái người ChămH’roi ở Phú Yên. Chi tiết này tương tự như hình thức bói bài hoặc rút quẻ của người Kinh. Nghi thức xin keo do thầy cúng tiến hành.

 

Xin keo gồm có 2 đồng xu 1 mặt đen, một mặt trắng. Khi thực hiện lễ thức này, thầy cúng ngồi xếp bằng chính giữa bên mâm lễ vật, miệng đọc lời cúng, tay phải nắm 2 đồng xu tung nhẹ lên cao hơn đầu người ngồi, sau khi đồng xu rơi xuống nền chiếu được trải trên sàn nhà, thầy cúng xem kết quả xin keo.

 

Trong hai đồng xu xin keo, nếu ngửa lên một mặt đen, một mặt trắng (thường gọi: Đồng sấp (sắp), đồng ngửa) có nghĩa là các vị thần linh đã đồng ý chấp thuận những lời thỉnh cầu của thầy cúng và gia đình về hôn sự của đôi trai gái. Ngược lại, khi cả hai đồng xu đều ngửa 2 mặt trắng hoặc 2 mặt đen, có nghĩa là các vị thần linh chưa chấp nhận lời cầu xin của thầy cúng. Trong trường hợp này, thầy cúng tiếp tục xin keo lần hai, lần ba hoặc nhiều hơn cho đến khi được thì thôi.

 

Mỗi lễ cúng kéo dài từ 30-40 phút. Một phần phụ thuộc vào kết quả xin keo. Nếu xin keo nhiều lần mới được thì lễ cúng kéo dài hơn còn thì ngược lại. Các lễ cúng liên tiếp nhau cho đến lúc kết thúc cả 4 lễ thì chấm dứt. Qua thực tế 4 lễ cúng trên thì nhiều lắm cũng đến lần thứ 3 là thầy cúng xin được keo. Do vậy thời gian mỗi lần cúng chỉ kéo dài khoảng 30 phút là kết thúc. Sau khi kết thúc cả bốn lễ cúng, gia đình bày dọn những thức cúng, mời họ hàng, làng xóm và thầy cúng cùng ăn, trò chuyện vui vẻ...

 

4. LỄ THỨC NGÀY HỎI, CƯỚI:

 

4.1. Nhà gái làm lễ cúng ông bà, tổ tiên:

 

Trước 7g sáng, khi nhà trai chưa đến làm lễ hỏi, cũng tại nhà gái có thực hiện lễ cúng ông bà, tổ tiên. Lễ vật gồm cả một con heo khoảng 70-80 kg, đã được mổ thịt, làm sạch để nguyên cả con bày ra giữa nhà. Heo được đặt nằm úp, bốn chân xoãi ra bốn bên, mõm heo được cột bằng một sợi dây rừng, đặt sát vách hướng về phía đông, đầu heo được trùm lên một tấm mỡ sa mỏng. Xung quanh con heo có 3 mâm cúng: ông bà, tổ tiên phía cha (bên cha đẻ của cô dâu), cúng ông bà, tổ tiên phía mẹ (bên mẹ đẻ của của cô dâu) và cúng các hương hồn (những người không nơi nương tựa), sau mời bà con dân làng xúm xít vui vầy cùng với gia đình. Khi lễ vật được bày biện xong, thầy cúng đốt đèn sáp ong và bắt đầu van vái.

 

4.2. Lễ hỏi (Pla kon)

 

Lễ cúng tại nhà trai: Trước lúc nhà trai khởi hành đến nhà đàng gái thực hiện nghi thức lễ hỏi, thì tại nhà cha đẻ của chú rể cũng đặt lễ vật làm lễ cúng ông bà tổ tiên nhà mình. Mâm lễ vật cúng được đặt ở giữa nhà. Đây là lễ vật cúng ông bà, tổ tiên, báo tin ông bà tổ tiên biết việc hôn sự của gia đình đàng trai trước khi sang nhà gái ăn hỏi.

 

+ Nghi thức cúng:

 

Ngồi xung quanh mâm lễ vật cúng có già làng, Mai dong. Sau khi ngọn đèn sáp ong được thắp sáng, già làng và Mai dong cùng van vái cúng:

 

- “Con cháu trong gia đình báo tin cho ông bà tổ tiên biết, hôm nay gia đình có đi hỏi vợ cho con trai; mong ông bà tổ tiên phù hộ cho nhà trai mọi việc đều suôn sẻ và cầu mong nhà gái chấp thuận cho đôi trẻ được nên vợ nên chồng”.

 

Trong thời gian thầy cúng thực hiện nghi lễ thì bố mẹ của chú rể và con trai ngồi chăm chú vào mâm cúng và cùng ước nguyện những điều may mắn tốt đẹp. Sau khi đọc xong lời cầu khấn, già làng rót 2 ly rượu trắng để lên một cái đĩa. Rót 2 ly rượu lần đầu, già làng đổ xuống đất, lần rót thứ 2 già làng đưa cho chú rể bưng mời từng người. Trước tiên là mời già làng, tiếp đến là Mai dong, sau đó mời cha mẹ, rồi lần lượt mời mỗi người có mặt uống một ly rượu.

 

Khi đã mời rượu khắp lượt, già làng lấy một mảnh vải dệt bằng thổ cẩm dài độ 2m, rộng khoảng 60cm, một đầu mảnh vải được gập đôi, rồi may hai mép vải lại như đáy túi, may tiếp một đường dọc theo chiều dài mảnh vải dài độ 30-40cm, tạo thành một chiếc túi nhỏ. Tất cả lễ vật được xếp vào túi, rồi cột mối tạo thành một tay nải để mang lễ vật qua nhà gái.

 

Từ nhà trai đi đến nhà gái, Già làng và Mai dong trong trang phục, trang sức truyền thống của dân tộc Chăm H’roi. Họ đi theo hàng dọc, người sau kế tiếp người trước. Lúc này tại gia đình nhà gái không khí rất nhộn nhịp chuẩn bị đón họ đàng trai. Trong nhà có các Mai dong, già làng và người thân của cô dâu đang chờ đợi để đón tiếp nhà trai.

 

Ngoài khoảnh sân rộng trước cửa nhà cô dâu, đông đảo nam, nữ thanh, thiếu niên của buôn làng trong trang phục, trang sức truyền thống đang nhảy múa theo nhịp trống đôi, cồng 3, chinh 5 rộn rã thúc rục, mời chào.

 

Đứng ở cổng vào sân nhà gái, có hai người đàn ông tuổi trung niên. Trên tay mỗi người cầm một chai rượu trắng và một cái ly uống rượu loại nhỏ. Sau lời chào hỏi, mỗi Mai dong và già làng bên nhà trai được mời uống 2 ly rượu, trước khi bước lên cầu thang lên nhà sàn. Mọi người ở nhà gái vui tươi niềm nở đón tiếp nhà trai.

 

- Sau những phút đầu tiên gặp gỡ, già làng bên nhà gái hỏi:

 

- Oi hai nao pơ nây, mao a der so? (Các ông đến đây để làm gì? có chuyện gì không?)

 

- Mai dong nhà trai trả lời:

 

- Ka mi nao pơ nây chi no mây, pờ ra kon ...(tên chàng trai) ha ...(tên cô gái).

 

(Chúng tôi đến đây trước là thăm gia đình, sau là đi hỏi con...với thằng... có ưng nhau không?)

 

- Trong lúc Già làng và Mai dong hai bên trao đổi, Già làng bên nhà gái cho gọi cô gái lên và hỏi:

 

- May chen chi ...(tên chàng trai) so...(tên cô gái)? (Mày có ưng thằng...(tên) hay không...(tên)?).

 

- À ná chen (con chấp nhận) – Cô gái trả lời.

 

- Già làng hỏi tiếp:

 

- May chen pi a hó, vớt vo may so chen, mớt lơn mo ngan kây? (Mày ưng là ưng thiệt hay chưa, nếu mà mày nói dối thì mày phải chịu mất bò, heo để trả lễ đó).

 

- Sau khi hỏi xong, Già làng đưa tay ra cho cô gái cùng ngoéo tay cử chỉ này thay cho lời hứa chắc chắn và đã có sự suy nghĩ kỹ lưỡng.

 

Sự việc trên thể hiện nhà gái và cô gái đã đồng ý chấp thuận việc hôn nhân giữa hai gia đình, lúc này nhà trai trình lễ vật ra trước hai họ.

 

(Còn nữa)

 

Th.S NGUYỄN HOÀI SƠN

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek