Quê tôi có con sông hiền hòa chảy giữa đôi bờ cát. Hai bãi cát là hai “sân vận động” mà thiên nhiên ban tặng cho bọn trẻ làng tôi. Lũ con trai tha hồ thi thả diều, thi vật, đánh khăn… Lũ con gái nhảy dây, gọi số giật cờ…
Sau mỗi cuộc chơi trở về nhà thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Tôi phóc lên chiếc võng trân mẹ mua ở chợ Bến về. Võng chao qua chao lại, mát ơi là mát! Có lúc cứ vậy mà ngủ thiếp đi, mơ thấy mình cùng bạn bè ra sông ngụp lặn. Trực giấc, thấy mẹ ngồi bên võng vừa đưa vừa hát bài hát ru quen thuộc ngày nào: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”…
17 tuổi, tôi rời làng theo đoàn quân vệ quốc. Vượt suối sâu đèo cao, lên trung du, về đồng bằng đi đâu võng cũng theo tôi. Chiếc võng dù là quân trang tối cần thiết của lính thời chiến. Võng ru giấc ngủ cho người chiến sĩ, xua tan nhọc nhằn. Và khi người lính vĩnh viễn nằm xuống võng là quan tài theo họ vào thế giới nghìn thu.
Tuổi già xế bóng, bên võng, ông bà đưa cháu vào giấc ngủ say. Kẽo cà kẽo kẹt, tiếng võng đều đều, êm êm như lời ru thân thuộc.
Qua bao thời gian, qua bao biến cố những chiếc võng vẫn gắn bó với con người. Tiếng kẽo cà kẽo kẹt gọi về biết bao kỷ niệm!
PHẠM NGỌC TRÂN