Tôi biết đến bát nước chè xanh từ những ngày còn nhỏ.Quê tôi nằm ở vùng đất đỏ bazan quanh năm khí hậu mát mẻ phù hợp với các cây chè. Cuối thập niên bảy mươi và đầu những năm tám mươi của thế kỉ trước, sau cuộc vận động kinh tế, khai hoang vỡ hóa vùng đất này, quê tôi trở thành nông trường chè của huyện. Ngoài Ban giám đốc, phần lớn công nhân lao động chủ yếu là những người ở các tỉnh từ bắc miền Trung trở ra vào đây lập nghiệp. Tôi còn nhớ có chú Hạ, cô Quyền người Nghệ An. Cô chú tham gia thanh niên xung phong trong chiến tranh. Đất nước giải phóng, hai người dắt nhau về quê, đất chật người đông không có việc làm nên cả hai lặn lội vào đây. Những ngày đầu vào nông trường cô chú ở nhờ nhà tôi, gia tài mang theo chỉ có vài bộ áo quần bộ đội và một cái điếu cày đầu bịt nhôm đã lên nước bóng loáng. Mờ sáng, chú thường ngồi ở hiên nhà với ấm chè xanh hái từ chiều hôm trước ngoài nông trường om qua đêm. Chú uống bát chè nóng, rít hơi thuốc lào thay bữa ăn sáng rồi cả hai cùng đi làm.
Từ ngày có chú Hạ, cô Quyền, nhà tôi vui hẳn lên. Cha tôi cũng bắt đầu uống chè xanh từ đó. Chú Hạ lấy làm vui, nói: Chè xanh thơm lắm ông cụ à, nó thường chống được bệnh cảm ho thông thường đấy. Cha nghe vậy, dần dần chuyển sang uống chè xanh hẳn. Mỗi lần đi làm bên nông trường về, chú Hạ không quên mang về một nắm lá chè. Chú còn chỉ cho cha cách om chè đúng kiểu của người ngoài Bắc. Phải chọn lá không quá non hoặc quá già, nếu lá non sẽ loãng nước, lá già quá sợ mất vị thơm, lá vừa sẽ keo nước, có vị thơm và vị chát uống rất ngon. Có hai cách om: hoặc dùng ấm đất cho nước lạnh vào đun thật sôi rồi vò lá chè vừa chuẩn bị xong cho vào ấm, bỏ vào một lát gừng tươi đậy nắp lại, dùng khăn vải bọc kín giữ nhiệt độ, hai tiếng sau thì uống; hoặc dùng ấm thường đun nước sôi rồi vò chè bỏ vào và bớt lửa hong trên than nóng nhẹ. Cách này có thể dùng ngay nhưng không ngon như cách trên. Tôi nhiều lần om chè cho cha và cũng biết uống chè xanh khi còn ở quê nhà.
Sau này lớn lên tôi phải đi học xa nhà. Một thời gian dài, tôi sống ở vùng đất cố đô kinh kì. Con người nơi đây trang nghiêm, lễ giáo, nặng tình người… Ở đây, làm quen với những người bạn miền ngoài, tôi biết và học được ở họ nhiều điều về cuộc sống, văn hóa. Trong muôn vàn cái riêng chung đó, có bát nước chè xanh. Bố thằng Hiếu, bạn học cùng lớp, ở cùng phòng vào thăm, mang theo đủ thứ quà quê. Sáng hôm sau, tôi thấy ông lấy từ trong ba lô ra một nắm chè xanh cho vào cái ấm cũ của tụi tôi đã lên màu đen vì khói lò xô. Ông cặm cụi đun và lấy bì kẹo lạc ra nhâm nhi cùng bát nước chè nóng trước khi lên tàu về Nghệ An. Ông nói: Choa thấy ở đầu hẻm có o bán cơm Hến, sáng tụi mi ra đó ăn một bát lót dạ rồi đi học. Ở đó có nước chè xanh… Từ đó tôi và thằng Hiếu còm sáng nào cũng ra ăn tô cơm hến 1000 đồng và uống chén chè xanh rồi mới đạp xe lên giảng đường.
Ra trường, tôi được phân công làm việc dưới đồng bằng. Buổi sáng uống ly cà phê vỉa hè trong vội vã, bạn bè chưa kịp hỏi chuyện với nhau đã đến giờ đi làm. Cứ thế một ngày, một tuần trôi qua… Chiều cuối tuần thì tranh thủ chạy về quê thăm mẹ. Mỗi lần về, tôi không quên hái nắm chè xanh mang về thành phố, bạn bè thấy vậy bảo mày giống ông cụ Bắc kì quá. Tôi cười.
Gần đây, báo đài nói uống chè xanh sẽ phòng được bệnh ung thư. Nhiều người đổ xô đi tìm chè xanh mà uống. Mấy chị trong cơ quan cứ hỏi thứ bảy này em có về quê không. Sếp bảo khi nào về mang xuống cho “bố” nguyên một cây cả gốc lẫn rễ. Chiều lòng, tôi mang một cây chè từ vùng đất đỏ xuống, chỉ mấy tuần sau là cây ra bờ rào nằm. Thì ra loại cây này cũng kén đất dữ!
Cuối thập niên chín mươi, vì làm ăn thua lỗ nên nông trường giải thể, để lại một vùng đồi hoang hóa hơn trăm hecta. Những gốc chè to bây giờ không còn thẳng luống như ngày xưa nữa, nó khiêm nhường nằm khép mình dưới một rừng keo tai tượng rì rào trong gió… Và đến cuối tuần, nó lại âm thầm cung cấp lá, hạt cho “ông cụ Bắc kì” mang về xuôi. Mỗi lần om chè, tôi lại nhớ đến cô Quyền, chú Hạ, không biết bây giờ họ đang ở đâu…
ĐÀO TẤN TRỰC