Làng quê Việt đa phần nằm dọc theo các con sông. Từ thời mở đất khai hoang ngày trước, các bậc tiền nhân, khi chọn đất lập làng, luôn xem tiêu chí nguồn nước thuộc hàng ưu tiên số 1! Không có nước, làm sao duy trì sự sống? Thế nên, đồng bào thiểu số vùng cao dựng làng bên suối thì người Kinh dựng làng ven sông. Mà cũng phải thôi, thời ấy người ta gặp đủ thứ khó khăn trong việc đào giếng tìm nguồn nước. Đã thế, ngay cả những nơi dễ đào, người dân cũng không dám đào bừa phứa, bởi sợ đụng… long mạch thì họa lớn.! Không có giếng, tất nhiên người phải trông chờ vào nước ao hồ, nước suối, nước sông. Ao hồ mùa khô dễ bị cạn hơn sông, nước lại kém sạch, vậy nên những con sông bao giờ cũng được người đi khai hoang “để mắt” đến đầu tiên. Vì vậy, làng theo sông. Theo, không chỉ vì nước nôi cần cho sinh hoạt mà còn vì nước cần cho canh tác, vì con đường thủy tiện việc giao thông và cả vì nguồn “tài nguyên” tôm cá dẫy đầy trong bụng “mẹ sông” có thể giảm nhẹ nỗi lo toan bươn chải kiếm ăn của một bộ phận dân làng.
Có sông, có làng, tất nhiên là có… bến sông!
Ảnh: D.T.X
Hàng chục, hàng trăm cái bến nằm dọc theo những con sông. Sông dài -bến nhiều, sông ngắn - bến ít. Xưa, hầu như không có cầu. Muốn qua sông, người ta phải “xuống bến”. Bến sông được hình thành nơi những đoạn sông có vị trí thuận tiện cho người lại qua. Qua bằng đò hay… lội bộ là tùy mực nước sâu cạn và độ rộng hẹp của bến sông. Và cũng do căn cứ vào cái cung cách lại - qua kia, người ta chia làm hai loại bến sông: Bến đò thường đặt nơi những đoạn sông lở, hẹp, nước sâu, thuận tiện cho đò cập sát bờ mà không mắc cạn; Bến lội thì ngược lại, tìm nơi bãi bồi, lòng sông rộng, nước nông để người và gia súc có thể lội bộ qua sông…
Mỗi bến sông đều có một cái tên riêng, có thể mang tên làng, mang tên sự kiện, tên một vật đặc thù trên bến…. Hay vui hơn, nhiều khi chỉ là cái tên ngẫu nhiên “vọt miệng nói ra” của một vị tiền hiền thời khai mở bến sông. Đa phần, những cái tên bến sông quê đều hết sức dân dã, mộc mạc, thân thương, nghe là biết ngay: bến Lớn, bến Bè, bến Cây Đa…. Nhưng đôi khi, cũng xuất hiện những cái tên “lạ hoắc lạ huơ”, chẳng hạn, dòng sông quê tôi có cái bến sông được gọi là… bến Sách! Chẳng biết danh xưng “văn hóa” ấy từ đâu mà có, chứ cái làng quê trên bến xưa kia quanh năm nghèo khó, lo ăn còn chưa trôi thì còn nói chuyện sách vở nỗi gì!!!
Giống như đình chùa, chợ búa, bến sông cũng là nơi tụ hội, là nơi sinh hoạt cộng đồng của các làng quê Việt
…Và còn tuổi thơ. Tuổi thơ đang chí chóe đu lưng thằng trâu đen bóng khoái trá đằm mình xuống sông. Tuổi thơ đang vẫy vùng bên chị bò vàng ướt rượt, no căng đứng ngâm chân mơ màng ngắm vạt hoàng hôn đỏ lừ hắt phía trời Tây, chùng chình chưa muốn lên bờ…
… Và đêm xuống. Và trăng lên. Trăng lên chênh chếch soi nghiêng bóng đôi trai gái lén nhà hẹn nhau ra bến. Trăng hào phóng rắc vàng ngập gương sông lấp loáng. Trăng soi cho bến sông quê cần mẫn ghi vào biên niên sử từng câu chuyện tình mộng mị như trăng…
Y NGUYÊN