Năm Thiệu Trị thứ 1 (1841), thăng Thự Đông các Đại học sĩ lĩnh Thượng thư bộ Hình như trước; rồi gia hàm Thái tử Thái bảo. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua đi tuần ra Bắc, ông sung chức Khâm sai đốc lý tra biện các việc án. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), ban ơn gia chức Ngự tiền đại thần, cho đeo băng ngọc.
Tháng 4 năm Tự Đức thứ 4 (1851), ông mất, thọ 80 tuổi1.
- Lê Nguyên Huệ (đổi là Lê Nguyên Trung), người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương. Ông đỗ khoa thi Hương năm Quý Dậu (1813) ở trường thi Nghệ An, làm quan tới chức Tổng đốc Bình Phú2 .
- Hồ Bảo Định (đổi là Hồ Bảo Hựu), người thôn Giang Trạm, đỗ thi Hương ở trường thi Gia Định năm Kỷ Mão (1819), làm quan tới chức Tổng đốc Bình Phú.
- Đỗ Mậu Thưởng, xã Phù Liệt, huyện Thanh Trì, năm Kỷ Mão (1819), ông đỗ khoa thi Hương ở trường thi Sơn Nam, làm quan Bố chánh Phú Yên.
- Vương Hữu Quang, người thôn Tân Đức, huyện Tân Long. Ông đỗ thi Hương năm Ất Dậu (1825) ở trường thi Gia Định, làm quan tới chức Hộ đốc Bình Phú.
- Bùi Ngọc Quỹ, người xã Hải Thiên, huyện Tiên Lữ, đỗ khoa thi Hương năm Mậu Tý (1828) ở trường thi Nam Định; năm 1829, thi đậu đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829), làm quan tới chức Tổng đốc Bình Phú.
- Thân Văn Nhiếp, người xã An Lỗ, huyện Phong Điền, đỗ khoa thi Hương năm Tân Sửu (1841) tại trường thi Thừa Thiên, làm quan tới chức Tổng đốc Bình- Phú.
- Lê Văn Phổ, người xã Thiên Lộc, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên. Ông đỗ khoa thi Hương năm Mậu Dần (1842) tại trường thi Thừa Thiên; thi đậu Phó bảng năm 1844, thời vua Tự Đức làm Phó Quản đạo Phú Yên.
- Lê Thành Ý, người xã Thúy La, huyện Diên Phước, Quảng
- Nguyễn Văn Hiển, người xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, đỗ khoa thi Hương năm 1846 ở trường thi Thừa Thiên; thi đậu Hoàng Giáp năm 1847, làm quan Tuyên Phủ Sứ Phú Yên.
- Nguyễn Trung Thành, người xã Đường Long, huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên, đỗ khoa thi Hương năm 1848 tại trường thi Thừa Thiên, đỗ Phó bảng khoa Tân Hợi (1851), dưới thời Tự Đức ông làm quan Quản đạo Phú Yên .
- Lê Trọng Phú, người Văn Lý, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, đỗ khoa thi Hương năm Canh Tuất (1850) ở trường thi Thừa Thiên, dưới thời Tự Đức ông được bổ làm Quản Đạo Phú Yên.
- Hoàng Văn Tuyển, người xã Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Ông đỗ thi Hương năm Canh Tuất (1850) ở trường thi Thừa Thiên, đậu Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1851), làm quan Đốc học Bình Phú.
- Hồ Đăng Phong, người Hương Cần, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, đỗ khoa thi Hương năm Ất Mão (1855) ở trường thi Thừa Thiên, làm quan tới chức Tổng đốc Bình Phú.
- Trần Giảng, người xã Tránh Lộ, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thi Hương đậu khoa Đinh Mão (1867) tại trường thi Bình Định, làm quan tới chức Án sát Phú Yên.
- Huỳnh Toản, người xã An Lộc, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông thi đậu khoa thi Hương năm 1870 ở trường thi Bình Định, làm quan tới chức Án sát Phú Yên.
- Nguyễn Chất, người xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, Quảng Trị, đỗ khoa thi Hương năm Bính Tý (1876) ở trường thi Thừa Thiên, làm quan tới chức Bố chánh Phú Yên.
Lê Từ, người xã Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ông đỗ khoa thi Hương năm Mậu Dần (1878) ở trường thi Thừa Thiên, làm quan tới chức Án sát Phú Yên.
8. TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ BINH CHẾ
8.1.Tổ chức đồn ải, hải tấn
Tỉnh Phú Yên có các nguồn Thạch Thành, Hà Duy, đồn Phước Sơn, bảo Phú Vĩnh. Ở các nguồn miền núi, nhà nước đặt các chức Thủ sở, Thủ ngự để thu thuế và lập các đồn bảo để giữ gìn an ninh, đàn áp sự nổi dậy của các dân tộc thiểu số.
Phú Yên có nhiều cửa biển quan trọng như: Cù Mông, Xuân Đài, Vũng Lấm, Đà Diễn, Đà Nông, Phú Sơn. Ở các cửa biển đều được xây dựng các hải tấn. Tại các cửa tấn đặt Thủ sở có chức quan Thủ ngự và Hiệp thủ để canh phòng mặt biển. Trong các cửa tấn thì Vũng Lấm và Cù Mông là tấn quan trọng hơn cả.
8.2. Hoạt động phòng thủ
Tổ chức hải tấn là nhằm phòng thủ vùng biển và đồn ải ở các nguồn nhằm trị an vùng núi.
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), trấn thần Phú Yên tâu xin đóng giữ những nơi xung yếu: Hà Duy thì đặt các bảo: Thạch Lĩnh, Ỷ Lộ, Vân Trúc; Thạch Thành thì đặt bảo Phú Sơn, đều lấy 20 người dân tiếp cận phụ giữ, chọn người giỏi giang và quen biết người Man trông coi, sai theo quan thủ ngự để phòng giữ địa giới các nguồn Trà Vân, Trà Đình thuộc Bình Định.
(Còn nữa)
------------------
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, Bản dịch, Thuận Hóa, T. III, tr. 224 - 229.
2. Cao Xuân Dục, Quốc triều Hương khoa lục, Bản dịch, NXB TP Hồ Chí Minh, 1993, tr.102.
Phó Giáo sư ĐỖ BANG