“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Câu ca dao mộc mạc nhắc nhở cháu con về ngày Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương. Vào ngày này, đồng bào cả nước hướng về đất Tổ, hướng về nguồn cội với những tình cảm thiêng liêng, thành kính.
Đền Hùng
Núi Hùng (còn gọi là Nghĩa Lĩnh, cao 175m) thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Người xưa cho rằng: Đây là đầu rồng hướng về phía Nam, mình uốn khúc thành dãy núi Chọc, núi Vặn, núi Pheo xa xa ở phía sau; phía tây là dòng sông Thao nước đỏ; phía đông là sông Lô nước xanh như hai dải lụa viền làm ranh giới cố đô xưa.
Theo truyền thuyết, vua đầu nước ta hiệu là Kinh Dương Vương, cháu bốn đời của Viêm Đế Thần Nông (vị thần coi về nông nghiệp của Trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lang Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh.
Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm con. Khi các con khôn lớn thì Lạc Long Quân bảo: “Ta giống Rồng, nàng giống Tiên, không thể chung sống với nhau được lâu”. Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Lạc Long Quân dẫn bốn mươi chín người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương, tồn tại khoảng 2000 năm (trước Công nguyên), tính đến nay đã 4000 năm văn hiến. Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành, dân số khoảng một triệu người.
Từ xa xưa, nhân dân ta đã lập đền thờ trên núi Nghĩa Lĩnh, tưởng nhớ các bậc Thánh tổ gây dựng nước nhà. Đền miếu các thời đại xa xưa đã bị hư hoại hết, kiến trúc hiện còn được xây dựng từ thời Hậu Lê và triều Nguyễn. Hiện nay khu di tích Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và mộ Tổ.
- Đền Thượng và mộ Tổ trên đỉnh núi: Nơi đây xa xưa vua Hùng lập miếu thờ Trời, thờ Thần Lúa. Vua Hùng Vương thứ 6 đuổi giặc Ân xong, cởi áo vắt cành kim giao rồi hóa về trời, được táng tại đó (mộ Tổ).
- Đền Trung: 2300 năm trước, đây là nơi vua Hùng nghỉ ngơi, ngắm cảnh bàn việc nước. Đây cũng là nơi Lang Liêu dâng bánh dày - bánh chưng để biếu vua cha. Sau thời Hùng Vương, nhân dân lập “Hùng Vương miếu Tổ”.
- Đền hạ và chùa: Nơi Âu Cơ sinh trăm trứng, sau đó nhân dân lập đền thờ. Phía phải là chùa Thiên Quang, trước có gác chuông và nhà bia ghi công đức.
- Đền Giếng: Nơi có giếng, công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa rửa mặt, chải tóc, chít khăn… Vì vậy đền thờ hai công chúa trùm lên giếng.
Thời phong kiến, cứ 5 năm nhân dân mở hội lớn một lần, vào những năm chẵn. Năm 1946, chính quyền cách mạng tổ chức giỗ đầu tiên. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, mặc quốc phục (áo dài the) đội khăn xếp đã đến làm lễ dâng hương và khấn vái theo lễ tục cổ truyền. Cụ dâng lên bàn thờ Quốc Tổ tấm bản đồ Việt
Ngày 19/9/1954, Bác Hồ đến viếng Đền Hùng. Người căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Hàng năm cứ đến ngày Giỗ Tổ, toàn dân ai nấy đều hướng về đất Tổ, về cội nguồn thấm đượm hồn thiêng sông núi, tưởng nghe tiếng vọng của ngàn xưa, như thấy hình ảnh tổ tiên Lạc Hồng vẫn đang hiển hiện. Câu đối ở Đền Hùng vẫn hằn sâu trong tâm trí người dân đất Việt:
- Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quay về đất Tổ.
- Văn minh đang buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ Ông.
PHAN THANH TÂM