Hàng trăm tấm bản đồ, tư liệu… về chủ quyền của Việt
Những bản đồ cổ chứng minh chủ quyền của Việt |
Bằng chứng thép
Tại khai mạc triển lãm "Bản đồ và tư liệu Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam-Những bằng chứng lịch sử" diễn ra sáng nay ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (28A Điện Biên Phủ, Hà Nội), Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền Thông) Lê Văn Nghiêm cho hay, ban tổ chức đã đem đến đây gần 150 tấm bản đồ, văn bản, hiện vật và ấn phẩm. Đó là nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu, học giả trong nước và quốc tế và là bằng chứng lịch sử và pháp lý chứng minh quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Để tiện cho khách thăm quan, khu vực triển lãm được bài trí một cách khoa học. Các nhóm tư liệu được trưng bày gồm phiên bản của các văn bản Hán Nôm, Việt ngữ và Pháp ngữ do triều đình phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX; 95 bản đồ chứng minh chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Việt Nam, phương Tây và Trung Quốc công bố từ thế kỷ XVI đến nay; hình ảnh, tư liệu về hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của Hoàng Sa và Trường Sa trong thời gian gần đây…
Đặc biệt, khách đến thăm quan triển lãm còn được tận mắt thấy ba cuốn Atlas (tập bản đồ chính thức) do nhà nước Trung Quốc xuất bản năm 1908, 1919 và 1933. Các Atlas này là sản phẩm của chương trình thiết lập bản đồ bưu chính do nhà Thanh đề ra vào năm 1906 và được chính phủ Trung Hoa dân quốc kế tục và các năm sau đó. Bản đồ được thiết lập chi tiết ở từng tỉnh, thể hiện các con đường vận chuyển thư từ, công văn… Và, nơi nào không thuộc lãnh thổ Trung Quốc thì không được thể hiện.
Trong các atlas này, cực
Không thể chối cãi
Về mặt sử học, giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, cho biết sau khi kết thúc 1.000 năm đô hộ của phương Bắc, các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn từng bước mở rộng lãnh thổ xuống phía nam. Năm 1940, vua Lê Thánh Tông cho hoàn thành bộ Hồng Đức bản đồ, có vùng duyên hải chạy dài đến núi Thạch Bi (Khánh Hòa) và biển, đảo tỏa ra khắp Đông Hải (biển Đông). Giữa biển Đông có một địa danh mới được đánh dấu là Bãi Cát Vàng.
Tiếp đó, đến đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Nguyên mở rộng lãnh thổ xuống miền Đông Nam Bộ, đặt ra đội Hoàng Sa khai thác và quản lý khu vực Bãi Cát Vàng. Cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với miền Đông Nam Bộ và tiến ra chiếm lĩnh khu vực Nam biển Đông. Tới năm 1711, chúa Nguyễn Phúc Chu giao cho Mạc Cửu tổ chức khảo sát, đo vẽ và quản lý Trường Sa hải chử (tức quần đảo Trường Sa ngày nay).
Vẫn theo giáo sư Nguyễn Quang Ngọc, vua Gia Long khi lập ra vương triều Nguyễn đã tái lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, liên tục thăm dò đường biển, thực thi chủ quyền một cách kiên quyết và đồng bộ. Đến đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XIX, các đội này được tích hợp vào đội Thủy quân của triều đình Minh Mệnh, hoạt động trên toàn tuyến biển đảo của Việt Nam.
Với sự cai trị của mình, vua Minh Mệnh đã đưa hoạt động chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa lên đỉnh cao nhất với các biện pháp như kiểm tra, kiểm soát, khai thác hóa vật-hải sản, thu thuế, cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền… Mỗi chuyến đi ra Trường Sa, Hoàng Sa đều có quyết định của triều đình…
Bước sang các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, các hoạt động chủ quyền không được duy trì thường xuyên như trước, nhất là trong hoàn cảnh đất nước không giữ được độc lập.
Giáo sư Ngọc cho hay, năm 1909, lợi dụng hoàn cảnh Việt Nam bị mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp và Pháp chưa quan tâm đến Trường Sa, Hoàng Sa, Trung Quốc lần đầu tiên cho người ra Hoàng Sa, tự nhận có công “phát hiện” và đã tùy tiện đặt tên mới cho đảo.
Theo ông Lê Văn Nghiêm, bộ tư liệu trưng bày ngày hôm nay chỉ là đại diện cho toàn bộ các nguồn tư liệu đã tập hợp được. Ban tổ chức chỉ tập trung vào giai đoạn trưng bày tư liệu từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ Việt
Cũng theo lời lãnh đạo Cục Thông tin đối ngoại, sau khi triển lãm tại Hà Nội, những tư liệu này sẽ được trưng bày tại TP Hồ Chí Minh vào tháng 8 tới. Sau đó, Cục Thông tin đối ngoại sẽ có kế hoạch tập hợp, thẩm định và hoàn chỉnh tư liệu để xây dựng bộ tư liệu mềm (tư liệu điện tử), giới thiệu tới các địa phương, đưa lên mạng Internet.
Theo Vietnam+