Theo những người trong gia đình, thiếu tướng Phan Quang Tiệp sinh ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1923 (trên giấy tờ ghi năm sinh là 1926), ở xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Cha mẹ ông sinh được sáu người con, bốn trai hai gái; ông là con út. Chưa được một tuổi, ông đã mồ côi mẹ, 10 tuổi thì mồ côi cha. Bà ngoại đưa ông về nuôi, đem tất cả tình thương bù đắp cho đứa cháu côi cút và cho đi học ở trường làng. Khi bà ngoại già yếu, người anh cả đưa ông về chăm sóc rồi cho ra Huế học.
Lớn lên trên cái nôi của phong trào đấu tranh nên tháng 8/1945, hòa vào không khí sục sôi, Phan Quang Tiệp đến với cách mạng, bắt đầu bằng việc tham gia vào lực lượng tự vệ ở địa phương. Sau đó, ông vào bộ đội, được học ở Trường Sĩ quan lục quân rồi trở thành Đại đội trưởng Đại đội 211 thuộc Tiểu đoàn 365 - Trung đoàn 803.
Thiếu tướng Phan Quang Tiệp.
NGƯỜI ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG Ở TIỂU ĐOÀN LÁ MÍT
Trong kháng chiến chống Pháp, Tiểu đoàn 365 là đơn vị chủ lực cơ động của Liên khu V, chiến đấu ở các tỉnh
Trung tá Trần Thành Chính đang sống ở phường 1, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, từng là chiến sĩ Tiểu đoàn Lá Mít. Ông cho biết: “Tiểu đoàn trưởng hồi đó là đồng chí Hà Vi Tùng - người Cao Bằng đi Nam tiến. Tiểu đoàn có 4 đại đội, trong đó 3 đại đội bộ binh gồm 211, 212, 213, còn 214 là đại đội trợ chiến. Đại đội 211 do đồng chí Phan Quang Tiệp làm đại đội trưởng có trên 100 chiến sĩ, là một trong những đại đội chủ công. Tôi khi đó là chiến sĩ ở Đại đội 212”.
Ở liên khu V, Tiểu đoàn Lá Mít có những trận đánh nổi tiếng, một trong những trận điển hình là trận phá đồn Tú Thủy tại thị trấn An Khê, tỉnh Gia Lai. Án ngữ trên đường 19, kiểm soát con đường huyết mạch từ Bình Định đi Gia Lai, đồn Tú Thủy được xây dựng kiên cố, bên ngoài có giao thông hào sâu, rộng, phải bắc thang mới đi qua được. Phía trong giao thông hào là thành đắp bằng đất và bao cát cao 3m; phía ngoài giao thông hào, địch giăng dây thép gai “mái nhà”. Tại đồn Tú Thủy có một đại đội tăng cường với hơn một trăm lính, được trang bị vũ khí hiện đại lúc bấy giờ. Ngoài ra, đại đội đó còn được pháo lớn ở đồn Cửu An, phía tây An Khê, yểm trợ.
Họp mặt cựu chiến binh Tiểu đoàn 365 tại Phú Yên. - Ảnh: T.T.CHÍNH |
“Khoảng đầu năm 1950, một bộ phận của Trung đoàn Cảm tử quân do đồng chí Vi Dân làm trung đoàn trưởng tấn công đồn Tú Thủy. Địch phản công dữ dội và cuộc tấn công đó thất bại, đồng chí Vi Dân hy sinh” - trung tá Trần Thành Chính nhớ lại - “Năm 1953, theo chỉ đạo của Liên khu ủy Liên khu V, Tiểu đoàn 365 đánh đồn Tú Thủy. Sau khi trinh sát xong, đơn vị làm trận giả, tìm cách đánh: đầu tiên dùng bộc phá ống phá hàng rào kẽm gai, lấy bẹ chuối rải hai bên (bẹ chuối màu sáng, nổi lên trong bóng đêm, các chiến sĩ nhìn vào đó mà biết lối vào), bắc thang qua giao thông hào và tiến vào tiêu diệt địch”.
Trận đánh đồn Tú Thủy bắt đầu từ 1 giờ sáng ngày 13/1/1953, khi An Khê chìm trong bóng đêm và sương mù dày đặc. Ông Chính lúc đó là chiến sĩ bộ binh của Đại đội 212, cũng tham gia công đồn. Ông nhớ lại: “Đại đội 211 do đồng chí Phan Quang Tiệp chỉ huy là đại đội xung kích trong trận đánh này. Đồng chí ấy rất gan dạ và cũng rất bình tĩnh trong quá trình chỉ huy trận công đồn. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Đến 5 giờ sáng, ta hạ đồn Tú Thủy; tiêu diệt, bắt sống toàn bộ địch ở đồn này. Về phía ta, có 40 đồng chí hy sinh”.
Trong ký ức của ông Chính, Đại đội trưởng Phan Quang Tiệp là người chỉ huy điềm tĩnh, gan dạ, người đồng chí giàu tình cảm, người thủ trưởng tận tụy, gần gũi, chân thành.
Năm 1954, ông Phan Quang Tiệp tập kết ra Bắc, học trường Công binh. Tốt nghiệp, ông về Cục Công binh thuộc Đoàn 559 (còn gọi là Binh đoàn Trường Sơn), vào chiến trường miền
Đèo An Khê trên quốc lộ 19.
Nhớ về thủ trưởng, đôi mắt già nua của trung tá Trần Thành Chính ánh lên ấm áp: “Con người ông ấy rất tốt, tận tụy, hiền hậu, nhã nhặn. Ông không bao giờ dùng chức của mình để nói nặng cấp dưới và sống rất bình dị nên anh em trong Binh đoàn ai cũng yêu quý. Ông rất quan tâm đến anh em. Có một kỹ sư thiết kế ở Binh đoàn, gia đình sống ở Hà Đông, hoàn cảnh khó khăn. Thủ trưởng hết sức tạo điều kiện để người cán bộ này đưa vợ con vào Gia Lai sống”.
Tình đồng chí, đồng đội giữa hai người lính này càng gắn bó sau khi đã nghỉ hưu. Mỗi lần về Tuy Hòa, ông Phan Quang Tiệp đều ghé thăm gia đình ông Chính. Và ngược lại, lần nào vô TP Hồ Chí Minh, ông Chính cũng đến thăm thủ trưởng cũ của mình.
(Còn nữa)
PHƯƠNG TRÀ