Tuổi thơ tôi có những đêm ngã lưng xuống nệm cát êm ái để ngắm sao trời. Tôi biết sao Bắc Đẩu, sao Bánh Lái, sao Cày... nhờ sự chỉ dẫn của cha trong những đêm nằm ngủ ở “khách sạn ngàn sao”. Ngủ trên bãi biển không chỉ khoan khoái vì nghe cát sột soạt khi ta trở mình mà còn đón nhận ngọn gió phóng túng từ biển khơi, được ngắm nhìn những ngọn đèn của tàu thuyền đánh cá giăng giăng thành hàng dài như đại lộ ngoài trùng khơi.
Về bến - Ảnh: KIM SA
Ngày xưa, ngư phủ dùng đèn măng-xông để đi câu. Từng đoàn thuyền câu nhấp nhô trên biển với những đốm sáng như muôn vàn ánh sao đêm. Đèn măng-xông là loại đèn sang trọng của một thời. Nó được thắp lên bằng dầu lửa; cái xông như trái tim, linh hồn của đèn. Dân biển sợ nhất là đèn rụng xông giữa đêm đen trùng khơi nên khi đi câu, đi lưới mành, người ta thường mang theo xông dự trữ.
Đêm, lũ cá thong thả bơi trong lòng biển cả. Bất chợt thấy thứ ánh sáng kỳ ảo của những ngọn đèn măng-xông, chúng liền ào tới vây quanh nơi có nguồn sáng lạ mắt, hấp dẫn, vô tình nộp mạng cho dân câu, dân lưới.
Những đêm trường, người chồng thao thức ngoài biển khơi với tay câu, tay lưới và với ngọn đèn măng-xông. Người vợ ngồi trên bãi biển dõi mắt ra khơi xa, nơi có muôn ngàn con mắt biển long lanh, trong đó có ngọn đèn của chồng, có ánh mắt đau đáu vì nguồn cá mực, bất kể sóng gió chênh chao.
Rồi những ngọn đèn măng-xông không còn chỗ đứng trên biển cả, thay vào đó là những bóng điện nê-ông sáng choang. Bóng điện nê-ông xuất hiện cùng lúc với máy thủy động năm - mười sức ngựa, gắn đinamô phát điện để nghề biển thêm một bước tiến, giải phóng luôn sức chèo của cơ bắp để những đoàn thuyền ra khơi nhanh hơn.
Những bóng điện nê-ông đêm đêm sáng lấp lánh ở tận chân trời xa tít, làm cho biển không còn cô đơn, xa cách với con người. Những ngọn đèn tạo nên phố biển rực rỡ trong mùa biển lặng.
Trên biển mênh mông, đèn thức thâu đêm với biển như ánh mắt lấp lánh của các thiếu nữ vạn chài, để rồi sáng hôm sau, những đoàn thuyền cá bạc đầy khoang, hối hả về đất liền, mang theo niềm vui ăm ắp.
TRẦN QUỐC CƯỠNG