Phong trào chống xâu, thuế, đòi dân chủ của đồng bào dân tộc miền Tây, sau khi Cụ Hội Chàm bị Pháp bắt, tuy lắng xuống nhưng lại có những cuộc đấu tranh mới, tiếp theo, vững chắc hơn, quyết liệt hơn, làm cho quần chúng thấy rõ bộ mặt thật của bọn thực dân và bè lũ tay sai của chúng.
Cuối năm 1938, tên đồn trưởng huyện Vân Canh (Bình Định) ra lệnh huy động, bắt dân làm đường số 6 (Vân Canh - Phước Lãnh - La Hai), đồng thời chủ trương bắt dân cống nạp những loại lâm sản có giá trị như: Mật ong, nhung, gạc nai, ngà voi, sừng tê giác, trầm kỳ… Đồng bào biết tin bàn cách chống lại bằng biện pháp bất hợp tác.
Tin quân đồn Vân Canh lên “chinh phục” Thồ Lồ, từ đó, Thồ Lồ nổi lên như một hình ảnh thần kỳ, danh tiếng dội vang khắp các vùng xung quanh. Các buôn làng đều noi theo Thồ Lồ, tìm mọi cách đấu tranh, đòi giảm sưu, giảm thuế, giảm đi làm xâu. Hơn tám mươi năm Pháp cai trị nước ta, bọn thực dân Pháp vẫn không tổ chức được chính quyền tay sai ở Thồ Lồ. Trên bản đồ chúng ghi vùng này là “vùng bất khả xâm phạm”. Trong một bài báo, tác giả người Pháp lại gọi là: “vùng vẫn hiên ngang sống ngoài thế kỷ văn minh”. Mặc dù tốn biết bao công sức hết mưu này đến chước nọ, thực dân Pháp vẫn không tài nào khuất phục được tinh thần bất tử của một bộ tộc chỉ có trên dưới 1.000 người.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán Đảng Cộng sản và các tổ chức dân chủ ở Pháp và các thuộc địa. Ở Việt
Bọn thực dân Pháp bắt hàng loạt đảng viên Đảng Cộng sản và những người của Mặt trận dân chủ, cấm lưu hành sách báo tiến bộ, cấm hội họp, giải tán các hội ái hữu. Chúng tăng sưu thuế, bắt dân nạp “đảm phụ quốc phòng”, “công trái”, trưng mua lâm thổ sản… với giá rẻ mạt, quần chúng vô cùng cơ cực. Bọn Pháp chúng bắt hàng trăm, hàng ngàn thanh niên cả Kinh lẫn Thượng đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 họp, chủ trương: “Giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc trở thành nhiệm vụ cấp bách nhất và là mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Việt
Ngày 22/6/1940, chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, ngày 23/9/1940 thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật.
Năm 1940 và 1941 ở Phú Yên, Pháp tiếp tục khủng bố, bắt gần hết cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng bị phá gần hết. Còn một số đảng viên cũ trong phong trào 1930-1931, 1936-1939, đảng viên chi bộ Nhà máy Đường Đồng Bò và một số cơ sở quần chúng nằm chờ bắt liên lạc với cấp trên.
Ngày 8/2/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Bác Hồ gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước rất thống thiết, có đoạn viết: “Dân ta một cổ đôi tròng, đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật… hiện thời muốn đánh Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết”. Chương trình Việt Minh phổ biến từ Bắc đến
1/ Làm cho nước Việt
2/ Làm cho dân Việt
Trong thời gian này, tổ chức Đảng ở Phú Yên chưa được khôi phục, địa phương chưa liên lạc được với cấp trên nhưng phong trào Việt Minh và ảnh hưởng vùng giải phóng Việt Bắc phát triển âm vang mạnh cả nước. Nhiều đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng ở các nhà tù Buôn Ma Thuột, Côn Đảo, Trà Khê, Quy Nhơn…, ra tù về Phú Yên tuyên truyền chương trình, điều lệ Việt Minh từ cuối năm 1944. Nhiều đảng viên cũ và cơ sở cách mạng ở các huyện tiếp thu và tuyên truyền vận động tổ chức Việt Minh. Phong trào Việt Minh sôi nổi trong cả tỉnh. Tháng 6/1945 các đồng chí từ nhà lao Buôn Ma Thuột về thành lập Tỉnh ủy lâm thời và tổ chức Đại hội Việt Minh tỉnh bàn việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Tháng 8/1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện. Phong trào nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước và ở Phú Yên rất sôi nổi từ đồng bằng cho đến miền núi.
(Còn nữa)
CAO XUÂN THIÊM