Rượu cần luôn hiện hữu trong đời sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu số trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên nói chung, miền núi Phú Yên nói riêng. Rượu cần còn là lễ vật dâng các đấng thần linh; chia sẻ niềm vui nỗi buồn, giao kết tình duyên đôi lứa.
Người Kinh, vào dịp Tết, giỗ chạp nhà khá giả thì tiếp đãi bằng rượu ngoại bia lon, người nghèo khó tiếp nhau bia bầu rượu đế. Riêng đồng bào các dân tộc thiểu số chỉ duy nhất một thứ: rượu cần. Ché vơi châm thêm nước, rượu loãng thay ché khác; sóng sánh vàng, nồng nàn, ý vị… cho giọng hát khan MaPhưu vút cao vang xa gọi hồn sông núi; cho cồng chiêng trống đôi tưng bừng vào hội, cho mọi người vui vẻ, cởi mở, chan hòa với nhau…
Rượu cần - Ảnh: Dương Thanh Xuân
Ngày xưa, muốn có ché rượu cần, người làm rượu phải nhọc công vào rừng sâu núi thẳm tìm một loại vỏ cây, củ rừng làm men rượu. Người Xê Đăng ở Kon Tum dùng hjam, ớt rừng (vị cay nồng), lá cây K’laxang (vị đắng), củ rơja trộn chung với bột bạo nếp làm nên men rượu. Người Êđê thì dùng hoa lá rễ cây dong rửa sạch phơi khô tán nhỏ trộn thêm bột củ riềng hoặc gừng với bột gạo, nắm thành nắm phơi khô làm men rượu cần, để dùng dần mỗi khi gia đình và dân làng có việc hệ trọng.
Ngày nay, men rượu sẵn có trên thị trường, việc làm rượu cần nhẹ nhàng, không phải nhọc công, chủ khách không phải “xót của” khi:
Hơi men ngát vít cần cong
Đêm say bên ánh lửa hồng vành trăng
(Đêm xuân bên ché rượu cần - Lê Anh)
Uống rượu để vui vầy bè bạn, uống cho thỏa cơn ghiền… thì dùng sao cũng được. Nhưng khi dùng rượu cần vào dịp lễ hội, tiếp khách quý thì phải có kiểu cách, theo phong tục của từng dân tộc. Các ché rượu làng được xếp một dãy dài buộc vào cột đằng đông, rượu gia đình buộc ché vào cột nhà sàn. Sau khi mở ché, họ dùng lá không có nhựa, không độc rửa sạch nhét chặt miệng ché, dùng vài thanh nứa hoặc tre, lồ ô găm chặt cổ ché để chặn lớp lá và bã rượu trào ra. Dùng nước suối đầu nguồn tinh khiết lấy từ sáng sớm đổ đầy miệng ché. Chờ nước ngấm vào rượu, dùng cần thọc thông đáy ché, nếm thử vài lần. Khi vị nồng của men, vị ngọt của rượu hòa tan trong nước là cuộc uống rượu bắt đầu.
Bất cứ cuộc rượu cần nào người Êđê cũng cử ra một người điều hành gọi là Gaipe, người hiểu biết cung cách mời rượu. Gai pe có nhiệm vụ mời ai uống trước, uống sau. Cứ vậy, cần được chuyển từ tay người này sang tay người khác, không được buông cần. Vì làm như vậy là xúc phạm tới thần linh và lòng tốt của gia đình. Nếu khách không uống nữa phải dùng ngón tay cái bịt đầu cần đưa lại Gai pe chuyển cho người khác.
Ở vùng đồng bào Chăm Hroi, Bana (Phú Yên) vào dịp lễ hội và đãi đằng khách quý, rượu cần được mang ra. Chủ nhà chọn một chiếc cần đẹp, dài mượt được dùng lâu năm (không bị dập, gãy) cắm vào ché rượu, sau đó vút cong cần, rồi dùng nến dây (làm bằng sáp ong) quấn quanh cần rượu. Khi nến sáp ong đã thắp sáng lung linh, cần rượu được chuyển tới tay khách mời. Trước khi mời khách ngậm cần, chủ nhà đặt tay lên miệng ché van vái: “Cầu Yàng, thần sông, thần núi… phù hộ cho người anh em chân cứng, đá mềm, sức lực dồi dào, gặp nhiều may mắn”. Nữ chủ nhà dùng một tô đầy nước châm tràn miệng ché để lường cho mỗi lượt khách uống. Ai uống một hơi hết tô nước, người đó mới đáng tin là nhiệt tình, thật lòng với chủ, chủ khách chan hòa. Men rượu cần nhẹ, khi chủ và khách say la đà thì cũng đến lúc tàn cuộc rượu.
Rượu cần là một sản vật chứa đựng tấm lòng mộc mạc thảo thơm nhưng rất lãng mạn của người dân vùng Trường Sơn – Tây Nguyên hùng vĩ.
MẠNH MINH TÂM