Sau khi nhã nhạc cung đình Huế và không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, Bộ Văn hoá- thông tin nước ta tiếp tục lập hồ sơ đề xuất công nhận các di sản khác: quan họ Bắc Ninh, múa rối nước và sử thi Tây Nguyên. Ngày
Nữ tiến sĩ âm nhạc học Gisa Jaehnichen, giảng viên đại học ở Frankfurt của Đức, gần 25 năm nay đã nhiều lần sang nước ta lặn lội nhiều vùng quê để nghiên cứu âm nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Tại cuộc hội thảo trên tại Hà Nội, theo quan điểm của bà, nói đến quan họ thì phải nói đầy đủ là văn hoá quan họ Bắc Ninh. Sự độc đáo của quan họ là không thể tách riêng phần lời với phần nhạc. Đồng thời, nói văn hoá quan họ là còn bao hàm nhiều thứ: phong tục, lễ, hội, hát đối đáp, thi hát, thi cỗ chay, thi đu tiên, thi đấu vật, kết bạn…
Tôi rất tán đồng với ý kiến ấy của Gisa. Mỗi lần Kinh Bắc vào xuân, tôi và bạn bè lại có dịp về với quê hương quan họ, với hội Lim. Dù nhiều lần được “tắm mình” trong biển trời quan họ, trong điệu nhạc lời ca của các liền anh liền chị, nhưng ấn tượng nhất với tôi vẫn là kỷ niệm lần đầu được tiếp xúc với quan họ. Ấy là khi tôi cùng một anh bạn nhà văn về một làng cổ ở ngoại ô thị xã Bắc Ninh. Bằng âm giọng bè trầm, các liền anh cất lên, nghe sao vừa đắm say lại vừa ngơ ngác:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi quan họ nhớ người nết na
Nhớ lời năn nỉ thiết tha
Ngọt ngào đầu lưỡi, mặn mà bên tai…
Chỉ có giọng người, không có tiếng loa ồn ã. Một không gian quan họ “chính thống” và “nguyên thuỷ”. Các liền anh vừa dứt thì giọng các liền chị ngân lên trong trẻo, da diết lạ lùng:
Nhớ thương em để dạ vàng
Năm canh gối chiếc lòng càng ngẩn ngơ
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Buồn trông con nhện, nhện chờ mối ai
Ngày xuân, xuân hãy còn dài
Muốn cho mai trúc sum vầy trúc mai…
Hàng năm, từ tháng giêng đến tháng tư Âm lịch, cả vùng quan họ Bắc Ninh nhộn nhịp hội làng, âm vang lời ca tiếng hát, dập dìu bước chân các liền anh liền chị, mà đỉnh cao là hội Lim, như một nhà thơ đã viết: “Tiếng hát tràn đồi Lim- Ngập cả vùng quan họ- Em mơ thành liền chị- Hát mãi cùng mùa xuân”. Núi Lim là hòn “độc sơn” nằm ở phía bắc huyện Tiên Du, dưới chân núi là dòng sông Tiêu Tương thơ mộng gắn liền với truyền thuyết mối tình bi tráng Trương Chi- Mỵ Nương ca ngợi người nghệ sĩ dân gian và nghệ thuật hát quan họ. Từ nguồn cảm hứng của quê hương quan họ đã thấm vào huyết quản của mình mà thi sĩ Hoàng Cầm đã viết nên nhiều câu thơ, bài thơ bất tử, trong đó có bài Sương cầu Lim huyền ảo:
Chấp chới lá chè non
Cầu Lim Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu bỏ quê xim
Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo sậu Phù Ninh
rợp nắng
về Thăng Long
Đá nghểnh trông con gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
Bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi
Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trõ nện ba hồi
Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo
Thầy Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết lòng chim sáo chim ri
Gái Cầu Lim Nội Duệ ra đi
Theo các nhà nghiên cứu, quan họ có từ thế kỷ 17 từ tục “kết chạ” giữa các làng với nhau. Trấn Kinh Bắc xưa có 44 làng quan họ gốc. Đến nay tỉnh Bắc Ninh còn gần 30 làng quan họ cổ, chủ yếu tập trung ở thị xã Bắc Ninh và hai huyện Tiên Du, Yên Phong. Những ngôi làng văn hoá quan họ đặc trưng này là điển hình của hình ảnh làng quê Bắc Bộ nguyên thuỷ, với hình ảnh cây đa, mái đình, bến nước, ngôi chùa gắn bó mật thiết. Riêng tổng Nội Duệ xưa, nơi có hội Lim, vẫn còn tồn tại nhiều làng cổ quan họ nổi tiếng: Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Nam, Duệ Đông, Lộ Bao, Đình Cả,… Viết về những ngôi làng quê mình, nhà thơ Nguyễn Phan Hách có bài Làng quan họ khá hay, được Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc, với đoạn mở đầu:
Sông Cầu làm bao xanh
Ngang lưng làng quan họ
Những cánh buồm nhớ thương
Câu ca đầu ngọn gió
Mẹ giặt yếm bến sông
Đêm trăng thanh mát gọi
Con nước chảy lơ thơ
Con cò đi lặn lội
Tháng giêng mùa hát hội
Áo nâu ướp hương trầm
Nón thúng quai thao rũ
Buông dài nếp xống thâm
Thời nhà Lê ở tổng Nội Duệ của trấn Kinh Bắc có quận công Đỗ Nguyên Thuỵ là người nặng lòng với nơi “chôn nhau cắt rốn” và rất yêu thích ca hát, nên đã bỏ nhiều tiền của tạo điều kiện cho các nghệ nhân luyện tập, trau dồi giọng hát ngón đàn, làm cho làng xóm thêm tươi vui. Để khuyến khích phong trào ca hát, vị quận công họ Đỗ còn cho tổ chức thi hát giữa các làng với nhau, còn những khi hát ở hội đình thì ông đưa ra lệ “thướng” động viên người hát. Đỗ Nguyên Thuỵ còn đích thân tham gia đặt lời, soạn nhạc, tạo nên những làn điệu mới. Sự nhiệt tình của ông đã được nhân dân tổng Nội Duệ hưởng ứng, ngày càng hoàn thiện dần cả lời lẫn nhạc và những tập tục hát quan họ. Cứ vào dịp Tết Trung thu, khắp tổng Nội Duệ vang lừng lời ca tiếng nhạc, rồi theo thời gian lan rộng cả Kinh Bắc.
Ngày 13 tháng giêng năm 1734 (Âm lịch), quận công Đỗ Nguyên Thuỵ qua đời. Nhớ ơn ông, nhân dân đã tôn vinh ông là hậu thần, xây lăng Hồng Ân để thờ tự, trong lăng có tấm bia “Thọ Phúc thần hiến điền bi ký” ghi rõ việc ông hiến ruộng đất, tiền của cho các làng xã để khuyến khích, phát triển sinh hoạt ca hát, lễ hội. Kể từ khi “người khai sáng” Đỗ Nguyên Thuỵ qua đời, hội Lim đã chuyển từ Tết Trung thu về ngày giỗ của bậc phúc thần này, tức 13 tháng giêng âm lịch hàng năm.
Ngoài Hiếu Trung hầu Đỗ Nguyên Thuỵ thì còn có nhiều người khác cũng góp phần quan trọng vào việc xây dựng, phát triển nghệ thuật hát quan họ, tiêu biểu là Nguyễn Diễn (được thăng đến tước Dĩnh Trung hầu cuối thời Lê) và ni cô họ Nguyễn. Cả hai người đều gốc tổng Nội Duệ và sau khi mất đều được nhân dân tôn làm phúc thần, thờ tự, cúng rước vào dịp hội Lim.
Có thể nói hội Lim là một trong những lễ hội tiêu biểu nhất của đồng bằng Bắc Bộ, luôn thu hút rất đông đảo du khách. Khi vào hội, buổi sáng là lễ rước, các làng lần lượt rước thần từ đình làng mình lên lăng Hồng Vân trên đỉnh núi Lim để tế lễ; tiếp theo mới vào hội hát quan họ, từ núi Lim lan rộng ra cả đất Kinh Bắc. Tuy nhiên, nếu như quan họ truyền thống xưa kia yên tĩnh, trang nhã thì quan họ hiện đại đôi lúc ồn ào náo nhiệt quá mức. Micro, loa phóng thanh, đàn điện… đã làm cho chất quan họ “bay đi ít nhiều”. Tiến sĩ Gisa Jaehnichen cũng nhận định rằng, muốn bảo vệ và phát triển văn hoá quan họ thì phải hát suốt năm chứ không phải chỉ diễn ra trong lễ hội mùa xuân, và phải đề cao tính đặc thù của văn hoá địa phương, như văn hoá Hà Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang) không thể lẫn lộn vào văn hoá Hà Nội. Bên cạnh đó, không nhất thiết giữ khư khư cho bằng được vốn cổ, mà phải biết kế thừa và phát triển. Bởi vì chúng ta không phải sống ở thế kỷ 17-18 mà đã là thế kỷ 21, nên người nghệ sĩ phải diễn tả cái ngày xưa theo thẩm mỹ ngày nay thì mới đáp ứng được nhu cầu của người hâm mộ. Và quan điểm này không phải chỉ ứng dụng riêng cho quan họ mà còn ở các loại hình văn hoá nghệ thuật khác. Nhận định của một người nước ngoài đối với văn hoá nghệ thuật cổ truyền dân tộc rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
PHAN HOÀNG