Tháng 3/1959, đoàn làm phim của Xưởng Phim truyện Việt Nam đã từ Hà Nội vào Quảng Bình, qua sông Nhật Lệ, bên kia bán đảo cát Bảo Ninh của thị xã Đồng Hới để thực hiện quay bộ phim truyện “Chung một dòng sông”.
Cảnh trong phim “Chung một dòng sông”. |
Đây là bộ phim có chủ đề về đấu tranh thống nhất, một vấn đề nóng hổi tính thời sự nên Bộ Văn hóa khi đó đã điều động khá nhiều nhân tài, vật lực để có một bộ phim truyện đầu tiên của nước nhà, nhằm đáp ứng nhu cầu mong mỏi cháy bỏng của nhân dân trong nước. Phạm Kỳ Nam, Hồng Nghi, những người từng tham gia làm phim trong chiến dịch Điện Biên Phủ và phim tài liệu “Việt Nam trên đường thắng lợi” được cử làm đạo diễn và quay phim chính của bộ phim này.
“Chung một dòng sông” là câu chuyện xảy ra ở hai bờ
Chiều chiều, những đoàn thuyền đánh cá từ ngoài khơi trở về cửa sông, một nửa tưng bừng rẽ sang bờ Bắc, một nửa phải vật vờ trở về bờ
Trong lúc nhân dân Vĩnh Linh bờ Bắc tự do hội họp, học hành, vui chơi thì nhân dân bờ
Bộ phim với nhiều tình tiết sinh động, hấp dẫn đã làm khán giả miền Bắc đón nhận nồng nhiệt. Sau đó, phim đã được tham gia và đoạt giải thưởng lớn tại Liên hoan Phim quốc tế năm 1962. Và năm 1973, trong Liên hoan Phim toàn quốc lần thứ 2, “Chung một dòng sông” đã giật giải Bông sen vàng.
Trước một nhiệm vụ chính trị lớn lao, đạo diễn Phạm Kỳ Nam và nhà quay phim Hồng Nghi khéo chọn Bảo Ninh và con sông Nhật Lệ để làm phim. Giữa cái vùng “chang chang cồn cát”, suốt 4 tháng trời ròng rã giữa mùa nắng nóng, đoàn làm phim đã như cỗ máy mở hết công suất. Từ đạo diễn, quay phim, diễn viên đến đạo cụ, hóa trang, thư ký trường quay... mồ hôi ròng ròng để có những thước phim theo ý muốn.
Tôi còn nhớ, riêng cảnh đoàn thuyền đánh cá ngoài khơi trở về, một nửa sang Bắc, một nửa về Nam, đạo diễn và quay phim phải đi liên hệ từng thuyền, từng đội, dặn dò, chỉ vẽ cho họ từng chi tiết một từ trước khi họ ra khơi mấy ngày. Để rồi, ngày làm phim, khi vào đến cửa sông, tất cả các thuyền đều chạy theo một quỹ đạo vạch trước. Các lão ngư làng biển thuần phác quê tôi lần đầu tiên nhận lời đóng phim, hồ hởi và nghiêm túc như họ đã từng nhận mệnh lệnh, chỉ thị hành động của cách mạng thời kỳ chống Pháp.
Hôm đó, họ đi biển về, buông neo chờ đợi nhau phía ngoài cửa biển. Đợi khi có pháo lệnh từ giàn quay đặt trên một chiếc thuyền ở cửa sông Nhật Lệ bắn lên, tất cả đồng loạt nhổ neo, căng buồm lướt vào bờ. Đoàn theo hướng Bắc, đoàn theo hướng
Người dân làng biển quê tôi vui đến chảy nước mắt, vì thấy thuyền biển quê mình “nhập vai” khá sắc sảo thuyền biển của vùng sông nước cửa Tùng.
Một hôm, trưởng thôn quê tôi đi từng nhà thông báo: “Sáng mai, tất cả mọi người ra bờ sông để đóng phim, sẽ có trả tiền công”. Nghe nói có trả tiền công, sáng sớm, trẻ già trai gái kéo nhau ra bờ sông đi làm công cho đoàn làm phim.
Cảnh quay là bà con bờ
Nhưng, vừa lạ lẫm, vừa tò mò, nhiều người đã không nghe lời đạo diễn. Thế là, phải làm đi làm lại đến chục lần. Chiều, dân chúng lại tham gia quay cảnh khác. Đó là cảnh nhân dân bờ
Tác giả bên dòng sông Nhật Lệ.
Bấy giờ, tôi là một cậu bé 14 tuổi. Một hôm, cùng gần chục đứa bạn nữa, trèo lên một cây me trên đồi để nhìn xuống khuôn viên của một ngôi đền sát đó, nơi đoàn làm phim đang quay cảnh anh Vận và chị Hoài thuở đoàn tụ, từng thổ lộ tình yêu. Bỗng đạo diễn và quay phim Hồng Nghi nhìn thấy, liền quay ống kính về phía chúng tôi: “Này, các cháu, chú quay phim đấy nhé. Các cháu chỉ chỉ, trỏ trỏ tự nhiên, xem như mình đang là các thiếu nhi ở bờ
Cảnh quay tình cờ mà hóa thật như từng có trong kịch bản. Khi phim hoàn thành, chiếu lên, lũ trẻ chúng tôi ai cũng vỗ tay khoái chí. Bọn bạn đấm lưng tôi thùm thụp vì đã được đạo diễn chỉnh ống kính cho quay cận cảnh. Lúc đó, tôi không những chỉ chỉ, trỏ trỏ mà còn vỗ vào lưng một thằng bạn ngồi bên cạnh mà nói: “Xem kìa! Xem kìa!”.
Sau cảnh quay “ngẫu hứng” ấy, đạo diễn Phạm Kỳ
- Bây giờ cần có một cháu đóng vai một em bé bờ
Cả bọn nhìn nhau vừa thẹn, vừa sợ. Một thoáng, đạo diễn Phạm Kỳ
- Cháu này đẹp trai hơn, đóng nhé!
Phạm Chính gật đầu. Thế là Phạm Chính được bố trí nép mình vào gốc cây. “Bắt đầu!” - hiệu lệnh của chú Phạm Kỳ
Tháng 2/1965, Mỹ đánh vào Đồng Hới, Quảng Bình, mở đầu cho chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Ấy cũng là lúc tuổi trẻ làng quê Bảo Ninh chúng tôi mỗi người một việc. Người vào trường đại học. Người tham gia lực lượng thanh niên xung phong. Người khoác súng vào
Năm 1968, tôi trở lại Quảng Bình nhận công tác. Thật bàng hoàng khi được biết, Phạm Chính đã hy sinh từ tháng 5 năm trước. Trước đó một năm, bố anh, ông Phạm Rà, công tác tại ngành giao thông vận tải cũng đã bị bom Mỹ giết hại ở cửa Nhượng - Hà Tĩnh khi đoàn thuyền chở gạo vào Quảng Bình vừa ngang qua đây. Phạm Chính hy sinh, lúc đó anh là Tiểu đội trưởng trong Đại đội pháo C300 của Thị đội Đồng Hới.
Lần đó giặc Mỹ ném bom xuống trận địa sau làng. Phạm Chính bị một mảnh bom chém vào lưng, trong khi anh đang ấn cò súng, toàn thân đè lên khẩu pháo hai nòng đang nóng bỏng. Mộ của cậu bé hát Quốc ca bên bờ
Những người làm phim “Chung một dòng sông” từ đạo diễn đến diễn viên chính giờ đây có lẽ đã vắng nhiều. Nhưng bộ phim họ để lại là một dấu ấn không thể phai mờ trong nền điện ảnh nước nhà. Trong đó có cả chúng tôi, những người dân làng biển Bảo Ninh và liệt sĩ Phạm Chính anh hùng từng vào vai phụ...
HỒ NGỌC DIỆP