42 năm ngủ yên trong lòng đất 42 năm bất tử trong lòng bạn đọc yêu thơ, ắt hẳn Nguyễn Bính cùng các thế hệ bạn đọc yêu thơ ông rưng rưng ngậm ngùi một niềm an ủi lớn: ông là một trong những nhà thơ tài hoa được nhận giải thưởng lớn Hồ Chí Minh trong năm cuối cùng của thế kỷ. Tôi yêu thơ ông không chỉ ở chất chân quê đằm thắm mà chủ yếu là chất hào sảng ngang tàng của một đời thơ lận đận.
Nhà thơ Nguyễn Bính
Nguyễn Bính khởi đầu hành phương
… Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Một cành đào rơi nhớ cố nhân
Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển
Ai về Chiêm Quốc với Huyền Trân!
(Nhạc Xuân)
Vậy là với tấm lòng “lăng lắc đường xa nhớ cố nhân”, ông đã khăn gói vào xứ thần kinh giữa những ngày xuân như chữ của ông “Chín vạn bông trời nở”. Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh, ông lại trở về Huế “Dầm mưa mấy tháng tròn” để lại cho đời nhiều kiệt tác: Buồn ngự viên, Giời mưa ở Huế, Xuân tha hương, Hoa với rượu. Tình cảnh một nhà thơ nghèo tứ cố vô thân giữa đất trời kinh thành mênh mang trong mùa lũ thật ảm đạm xót xa:
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say
Nón lá áo tơi ra quán rượu
Trơ vơ trên bến nước sông đầy
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả
Chén ứa men lành lạnh ngón tay
(Giời mưa ở Huế)
“Túi rỗng nợ nần như chúa chổm, đón một mùa xuân tha hương” rối bời giữa đất kinh kỳ, tha hương ngay trên đất nước mình của một kẻ sĩ u uẩn thân phận mất nước bốn bể không nhà, còn có nỗi cay đắng nào hơn. Ông đã trải tiếng lòng trong 100 câu thơ của mùa xuân tha hương 1941:
Chén rượu tha hương! Trời! Đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông…
Chị ơi! Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não nùng!
Uống say cười vỡ ba gian gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông…
Thôn gà eo óc ngoài xa vắng
Trời đất tàn canh tối mịt mùng
Đêm nay em thức thi cùng nến
Ai biết tình em với núi sông!
Trăng - (Ảnh minh hoạ)
Trở về đất Bắc không lâu, như Tô Hoài nói là vẫn “những lang thang, những thất vọng và vô vọng bất đắc dĩ”, máu giang hồ nổi lên, Nguyễn Bính lại cùng Tô Hoài và Vũ Trọng Can tiếp tục cuộc viễn du đến Hòn Ngọc viễn đông. Rồi cũng diễn kịch, diễn thuyết không mấy người xem như ở Huế để sống qua ngày. Rồi mỗi người mỗi ngả trong cơn túng bấn ngả nghiêng.
Tâm sự của Nguyễn Bính gởi anh B.H.C trong Lá thư về Bắc đầy bi đát trong những tháng năm vất vưởng giữa chợ đời của Sài Gòn hoa lệ:
Quán trọ nhà thơ như chiêm bao
Khi thì Chợ Quán, khi Đa Kao
Hiện nay sống tạm bên cầu Muối
Rồi biết mai đây ở chốn nào
Và, Hành phương
Đôi ta lưu lạc phương
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say…
Túng bấn, cùng cực mà vẫn giữ cốt cách cao đạo của kẻ sĩ, Nguyễn Bính chưa bao giờ luồn cúi ai vì bát cơm manh áo. Chuyện kể rằng, năm 1944, báo Thanh niên Đông Pháp – một tờ báo có uy tín ở Sài Gòn lúc bấy giờ tổ chức cuộc thi viết truyện ngắn. Truyện Không đất cắm dùi của Nguyễn Bính được tặng giải nhất. Chủ báo Trần Văn Hanh tổ chức lễ trao giải rất xôm tụ tại rạp Nguyễn Văn Hảo có đủ chính khách Tây, ta, văn nghệ sĩ trí thức tiêu biểu của Sài Gòn, trong đó có vợ chồng viên đốc lý và đại diện phủ toàn quyền đến dự. Lẽ ra Nguyễn Bính phải đọc đáp từ bằng tiếng Pháp vì Nam kỳ là xứ thuộc địa nhưng ông dõng dạc phát biểu bằng tiếng Việt, làm cho chủ báo Trần Văn Hanh sợ xanh mặt, phải lên sân khấu phiên dịch sang tiếng Pháp cho hầu hết cử tọa là người Việt nghe. Bi hài kịch của lễ trao giải hôm ấy và thái độ bảo vệ tiếng mẹ đẻ của nhà thơ được các báo Sài Gòn thời ấy đưa tin ca ngợi không tiếc lời.
Từ Sài Gòn, Nguyễn Bính về Hà Tiên thăm Đông Hồ, nữ sĩ Mộng Tuyết, về Rạch Giá sống vài tháng với Kiên Giang Hà Huy Hà để lại những câu đầy khinh bạc giữa đình Rạch Giá:
Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghĩa xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu.
Trong những năm tháng hành phương
Há rằng uổng một đời trai
Chẳng ban áo gấm cũng mài trăng khuya
Cách mạng tháng Tám bùng lên, Nguyễn Bính về Tây Nam bộ tham gia cách mạng, sau đó được bầu làm Phó Chủ tịch tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá.
Cả một thế hệ trí thức văn nghệ sĩ theo cách mạng vào bưng biền. Ban văn nghệ khu tám (Đồng Tháp Mười) gồm nhiều anh em quen thân cũ mời ông lên công tác. Nguyễn Bính xin cấp trên cho thôi nhiệm vụ Phó Chủ tịch tỉnh bộ Việt Minh Rạch Giá, khăn gói về Đồng Tháp Mười. Tướng Trần Văn Trà và Nguyễn Văn Vịnh – lãnh đạo Bộ tư lệnh khu tám dặn dò kỹ Ban tuyên truyền văn nghệ đối đãi đường hoàng, chăm sóc chu đáo tác giả Lỡ bước sang ngang.
Trong cuộc gặp gần đây tại nhà lưu niệm Nguyễn Bính tại Gò Vấp tháng 11/2006, bà Hồng Châu – đảng viên 60 năm tuổi Đảng, người vợ Nam bộ vô cùng yêu quý của Nguyễn Bính kể rằng:
“Tôi mê thơ Nguyễn Bính nhưng thấy con người Nguyễn Bính lãng mạn quá, nhiều cô mê quá, cũng có phần e ngại. Lúc này một số văn nghệ sĩ chịu không nổi kháng chiến gian khổ bỏ về thành. Anh Lê Duẩn tác hợp cho tôi với anh Bính. Tôi lắc đầu không chịu. Anh Ba thuyết phục rằng: “Cách mạng cần Nguyễn Bính. Tôi rất tin và yêu Nguyễn Bính. Nhà thơ cần có tổ ấm để yên tâm phục vụ cách mạng”. Có cảm tình với Nguyễn Bính cộng với sự tác hợp chân thành của anh Ba Duẩn, tôi đồng ý nhưng cũng nói rằng: “Em còn có gia đình, phải hỏi ý kiến ba má em”. Vậy là tổ chức cử người cùng đi với tôi về nhà thưa chuyện. Ba tôi cười sảng khoái bảo rằng: “Việt gian thì tôi không gả chứ Việt Minh thì tốt quá”. Vậy là nên vợ nên chồng. Đám cưới xôm tụ lắm, có anh Lưu Quý Kỳ, đại diện Xứ ủy
Chúng tôi sinh được mỗi cô gái rượu Hồng Cầu, sống hạnh phúc bên nhau cho đến ngày tập kết.
Bính lang bạt kỳ hồ, đa tình đa cảm. Nhưng trong sâu thẳm của tình yêu, trong tim anh ấy có tôi và trong tim tôi luôn có anh ấy với nghĩa vợ chồng trọn vẹn nhất”.
Đúng vậy. Bài thơ tình chân thành nhất của đời ông Gửi người vợ miền
Thư một bức nghìn lời tâm huyết
Đêm canh dài thức viết cho em
Bồi hồi máu ứ trong tim
Chảy theo ngọn bút hiện lên thơ này.
Nguyễn Bính đã đột tử vào chiều 30 Tết (20/1/1966), chết nổi trên ao bèo ở nhà một người bạn thân. Thì cũng như Lý Bạch xưa say rượu vồ trăng, chết chìm trên dòng sông lớn.
Ngày ông mất, bạn đọc yêu thơ cả nước tiếc thương ông. Ngay cả vùng tạm chiếm Sài Gòn cũng giành cho ông một chương trình thi văn Mây Tần để khóc một nhà thơ tài hoa bạc mệnh.
Ông ra đi, để lại cho đời một mùa xuân nguyên vẹn với hàng trăm bài thơ mãi tồn tại với thời gian:
Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân
(Nhạc Xuân)
PHAN THANH