Thứ Bảy, 05/10/2024 20:19 CH
Báo cáo tóm tắt
Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội an ninh - quốc phòng năm 2008 và nhiệm vụ, kế hoạch năm 2009
Thứ Tư, 03/12/2008 07:30 SA

 

PHẦN THỨ NHẤT

Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội và an ninh-quốc phòng năm 2008

 

Tỉnh ta bước vào thực hiện kế hoạch năm 2008, bên cạnh một số thuận lợi cơ bản về những thành tựu kinh tế-xã hội của các năm trước đã đạt được khá cao; kinh nghiệm quản lý điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên; Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội mới để cùng phát triển. Bên cạnh đó, tỉnh ta cũng gặp phải nhiều khó khăn, thách thức như: sự tác động chung do ảnh hưởng của lạm phát, suy giảm kinh tế thế giới và trong nước, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tăng cao; thiếu điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt; một số cơ chế chính sách của Chính phủ thay đổi. Ngoài ra, còn chịu nhiều tác động tiêu cực khác như: diễn biến bất thường của thời tiết, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, thuỷ sản, sốt xuất huyết… đã gây thiệt hại về kinh tế, đời sống. Tuy nhiên được chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ và Tỉnh uỷ, giám sát của HĐND tỉnh, nỗ lực của các ngành, các cấp; đồng tình ủng hộ các thành phần kinh tế và nhân dân trong tỉnh, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Có 08/12 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch Nghị quyết HĐND tỉnh giao năm 2008.  

 

dong-tau-081203.jpg

Sản xuất tại Nhà máy đóng tàu Phú Yên - Ảnh: NGỌC HÂN

 

Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu như sau:

 

* Chỉ tiêu về kinh tế:

 

- Tốc độ tăng GDP là 12,3% (KH là 14,5%).

 

Trong đó: Nông-lâm - thủy sản tăng 0,4% (KH là 3,7%).

 

Công nghiệp-xây dựng tăng 18,5% (KH là 21,1%),

 

Dịch vụ tăng 14,3% (KH là 15,4%)

 

- Sản lượng lương thực có hạt  312.000 tấn (KH là 320.000 tấn)  

 

- Tổng kim ngạch xuất khẩu  87,1 triệu USD (KH là 80 triệu USD)

 

- Thu ngân sách trên địa bàn 870 tỷ đồng (KH là 870 tỷ đồng)

 

- Tổng vốn đầu tư phát triển 5.975 tỷ đồng (KH là 4.850 tỷ đồng)

 

* Chỉ tiêu về xã hội:    

 

- Mức giảm sinh 0,37%o (KH là 0,5%o)

 

- Mức giảm TE suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi là 1,8% ( KH là 2%)

 

- Giải quyết việc làm 25.600 lao động (KH là 25.500 lao động)

 

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2,3% (KH là 2-2,5%).

 

* Chỉ tiêu về môi trường:

 

- Tỷ lệ độ che phủ rừng 38,5% (KH là 38,3%).

 

- Tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước hợp vệ sinh 85,3% (KH là 85%)

 

- Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 56,9% (KH là 52%)

 

Cụ thể trên các lĩnh vực như sau:

 

1. Nền kinh tế tỉnh tiếp tục ổn định và có mặt phát triển. Tăng trưởng kinh tế tuy không đạt kế hoạch đề ra nhưng đây là năm thứ 7 liên tiếp giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tăng trên 10% và đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện nền kinh tế khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng tài chính toàn cầu. Giá trị công nghiệp- xây dựng chiếm 32,5% trong cơ cấu GDP (năm 2007 là 31,9%), nông- lâm- thuỷ sản chiếm 31,3% (năm 2007 là 32,2%), dịch vụ chiếm 36,2% (năm 2007 là 35,9%). GDP bình quân đầu người là 10,8 triệu đồng, tăng 28% so năm trước.

 

- Đã tập trung quán triệt, xây dựng kế hoạch và triển khai khá đồng bộ các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, hạn chế được tác động tiêu cực do lạm phát gây ra. Các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng khá, xuất khẩu tăng 18,8%, nhập khẩu giảm 57,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng tăng 19,2% so tháng 12 năm trước và thấp hơn mức tăng giá tiêu dùng chung của cả nước (chỉ số giá tiêu dùng cả nước 10 tháng là 21,6%).

 

- Sản xuất nông-lâm-thuỷ sản gặp khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, nhưng có cố gắng trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi; đảm bảo an ninh lương thực. Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá cố định 1994) là 1.408 tỷ đồng, đạt 97% kế hoạch, giảm 0,6% so năm trước. Lúa đông xuân mất mùa,  năng suất chỉ đạt 46,1 tạ/ha (giảm 18,9 tạ/ha), nhưng nhờ tập trung chỉ đạo nên sản xuất vụ hè thu được mùa, năng suất đạt 65,7 tạ/ha (tăng 6,7 tạ/ha so cùng vụ năm trước) cao nhất từ trước đến nay, bù đắp một phần thiếu hụt vụ đông xuân. Năng suất một số cây trồng khác như mía, sắn đạt khá. Chăn nuôi phát triển ổn định, đàn gia súc, gia cầm tiếp tục tăng; phát triển một số đối tượng nuôi mới như: đà điểu, heo rừng lai, nhím, ếch… Công tác phòng chống dịch bệnh gia súc gia cầm được chú trọng. Đã khống chế dịch bệnh heo tai xanh, không để lây lan trên diện rộng. Tiếp tục giữ vững địa bàn không xảy ra dịch cúm gia cầm.

 

Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp (giá cố định 1994) 41,9 tỷ đồng, đạt 110,3% kế hoạch, tăng 17,6% so năm trước. Tỷ lệ độ che phủ rừng toàn tỉnh được nâng lên 38,5% (tăng 1,2% so năm trước). Công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng tiếp tục tăng cường, nhưng hiệu quả còn thấp; số vụ vi phạm tăng 298 vụ so cùng kỳ năm trước.

 

Giá trị sản xuất thuỷ sản (giá cố định 1994) 692 tỷ đồng, đạt 94,8% kế hoạch, tăng 1,4% so năm trước. Sản lượng khai thác 37.087 tấn, đạt 101,8% kế hoạch, tăng 1,8%; trong đó cá ngừ đại dương 3.620 tấn, đạt 72,4% kế hoạch, giảm 19,6%. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ của Chính phủ nên ngư dân vẫn tiếp tục bám biển sản xuất (đến ngày 20/11/2008, đã phê duyệt hỗ trợ cho ngư dân 111,6 tỷ đồng và đã giải ngân 86,5 tỷ đồng). Quy mô tàu thuyền được nâng lên, trong đó tàu thuyền trên 90 CV là 600 chiếc. Công tác khuyến ngư, tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản thực hiện thường xuyên. Sản lượng nuôi trồng 5.260 tấn, tăng 31,8% so cùng kỳ; trong đó sản lượng tôm sú giảm 26,9%, tôm thẻ chân trắng tăng gấp 2,4 lần; tôm hùm giảm 48,2%. Tiếp tục xuất hiện một số dịch bệnh ở tôm sú, tôm thẻ gây mất trắng 96 ha.

 

- Công tác phòng chống thiên tai được chú trọng. Triển khai tốt kế hoạch chủ động phòng chống hạn, khắc phục được hạn cục bộ. Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, BCH phòng chống lụt bão-TKCN Trung ương và chủ động triển khai phòng chống lụt bão. Tuy nhiên, lụt bão diễn biến phức tạp đã làm 09 người chết và gây nhiều thiệt hại cho sản xuất, đời sống của nhân dân trong tỉnh. Đặc biệt ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới và cơn bão số 10 đã làm 07 người chết, 01 người mất tích, 02 người bị thương; sập hoàn toàn 10 nhà dân, hư hỏng 70 nhà… Ước tính tổng thiệt hại 45 tỷ đồng. Toàn tỉnh đã tập trung khắc phục hậu quả lụt bão. Hỗ trợ cho gia đình có người chết, người bị thương nặng, nhà sập hoàn toàn theo quy định. Tổ chức khôi phục sản xuất, chăm sóc cây trồng, vệ sinh môi trường, giải phóng ách tắt trên một số tuyến đường, đảm bảo an toàn giao thông.

 

- Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất CN- TTCN (giá cố định 1994) 3.678 tỷ đồng, đạt 98,9% kế hoạch năm, tăng 21,6% so năm trước; trong đó cao nhất là khu vực ngoài Nhà nước tăng 24,5%. Có thêm 12 dự án đầu tư hoàn thành đưa vào sản xuất, trong đó có: Nhà máy sản xuất thuốc tiêm GMP, xí nghiệp may An Thịnh, nâng công suất nhà máy đường KCP lên 5.000 tấn mía/ngày… Tập trung chỉ đạo thực hiện tiết kiệm điện. Theo dõi tiến độ triển khai các dự án điện và tạo điều kiện thuận lợi chuẩn bị đầu tư các dự án thuỷ điện nhỏ khác trên địa bàn. 

 

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp (KCN), cụm điểm công nghiệp tiếp tục được hoàn chỉnh, tuy nhiên thu hút đầu tư có dấu hiệu chững lại. Đến nay có 62 dự án đăng ký đầu tư vào các KCN (trong đó: 46 dự án đi vào sản xuất, 9 dự án đang triển khai, 7 dự án chưa triển khai); riêng năm 2008 có 05 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký là 597,7 tỷ đồng.  Hầu hết các dự án trong KCN có quy mô vừa và nhỏ, chưa phát huy hết năng lực sản xuất. Giá trị sản xuất và doanh thu của các doanh nghiệp KCN còn thấp; giá trị sản xuất ước đạt 657,8 tỷ đồng, chiếm 17,9% giá trị sản xuất của toàn ngành; doanh thu 1.549,5 tỷ đồng, nộp ngân sách 54,8 tỷ đồng. Số lao động làm việc tại các KCN là 7.025 người, trong đó lao động địa phương chiếm 96%.

 

- Tiếp tục nâng cao chất lượng các dịch vụ. Hoạt động thương mại phát triển, lưu thông thị trường thông suốt. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6.128,8 tỷ đồng, vượt 14,6% kế hoạch, tăng 37,6% so cùng kỳ. Công tác đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại được tăng cường. Chỉ đạo việc ký cam kết thực hiện niêm yết giá, bán theo giá niêm yết đối với các mặt hàng thiết yếu và kiểm tra việc thực hiện. Tổng kim ngạch xuất khẩu thực hiện 87,1 triệu USD, vượt 8,9% so kế hoạch và tăng 18,8% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu giảm 57,5%, do Công ty TNHH MTV Vật tư tổng hợp Phú Yên không nhập khẩu trực tiếp xăng dầu. Dịch vụ du lịch phát triển với 06 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch mới đi vào hoạt động; các sản phẩm du lịch đa dạng hơn. Đã tiếp đón và phục vụ 165.000 lượt khách, đạt 100% kế hoạch, tăng 37,4% so năm trước, doanh thu du lịch 90 tỷ đồng, đạt 129% kế hoạch, tăng 89% so cùng kỳ. Phú Yên tiếp tục được đánh giá là tỉnh khá trong cả nước và khu vực về chất lượng dịch vụ vận tải hành khách, đặc biệt là vận chuyển hành khách chất lượng cao. Dịch vụ hàng không phát triển, từ ngày 25/7/2008 tăng tần suất bay tuyến TP.HCM-Tuy Hòa và ngược lại từ 3 chuyến/tuần lên 5 chuyến/tuần. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh; mật độ thuê bao điện thoại các loại là 43,4 máy/100 dân, mật độ internet đạt 3,3 thuê bao/100 dân. Huy động vốn của các ngân hàng tăng 26% so đầu năm.

 

- Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được tăng cường. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm về tài nguyên, khoáng sản được chú trọng. Đã ban hành Chỉ thị chỉ đạo tăng cường quản lý quỹ đất trồng lúa nước trên địa bàn tỉnh. Tiến hành thanh tra và  kết luận thanh tra việc sử dụng đất của 22 tổ chức với 27 dự án, tổng diện tích được kiểm tra là 188,8 ha. Qua đó: đất sử dụng đúng mục đích 129,9 ha chiếm 72,9%, đất không còn nhu cầu sử dụng là 39,4 ha, đất không đưa vào sử dụng 4,1 ha, đất đang sử dụng nhưng chưa làm thủ tục, hoặc sử dụng sai mục đích 5,1 ha... Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong các tổ chức và nhân dân.

 

- Công tác chỉ đạo lập quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch được chú trọng. Đã chỉ đạo tổ chức công bố công khai Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Phú Yên đến năm 2020. Tỉnh cũng đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KTXH các huyện: Tây Hoà, Sông Cầu và một số quy hoạch ngành quan trọng như: giáo dục đào tạo; công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông; quy hoạch chi tiết Khu trung tâm hành chính mới và khu dân cư mới xã Hoà Tâm và 13 quy hoạch chi tiết xây dựng các khu dân cư, khu du lịch... Đã triển khai quy hoạch vùng và quy hoạch ngành nghề ở nông thôn từ nay đến năm 2020. Đáng chú ý, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển khu kinh tế Nam Phú Yên và đưa vào quy hoạch 15 khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020.

 

- Công tác đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả nổi bật. Tập trung khắc phục khó khăn do ảnh hưởng lạm phát và làm tốt công tác xúc tiến đầu tư nên thu hút thêm một số dự án có vốn đầu tư lớn vào địa bàn tỉnh. Đã thông báo chấp thuận chủ trương đầu tư cho 52 dự án. Ngoài ra, tiếp xúc và làm việc với hơn 20 nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu cơ hội đầu tư. Đáng chú ý tổ chức thành công Lễ trao giấy chứng nhận đầu tư cho 06 dự án và công bố chủ trương đầu tư 21 dự án lớn trên địa bàn tỉnh, trong đó có dự án khu du lịch liên hợp cao cấp tổng vốn đầu tư trên 4,3 tỷ USD. Bên cạnh thu hút đầu tư, đã tập trung kiểm tra, rà soát công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng các dự án. Đã thu hồi và chấm dứt hiệu lực các thông báo cho phép lập thủ tục chuẩn bị đầu tư của 12 dự án. Thực hiện ký quỹ đầu tư 14 dự án với tổng mức ký quỹ là 16,6 tỷ đồng. Nhờ thực hiện ký quỹ đầu tư nên hạn chế tình trạng nhà đầu tư đăng ký nhưng không triển khai thực hiện và ngược lại các nhà đầu tư rất tích cực thực hiện tiến độ dự án. UBND tỉnh đang chỉ đạo các ngành tiếp tục cùng nhà đầu tư hoàn tất các thủ tục để chuẩn bị đầu tư các dự án lớn như: lọc dầu, hoá dầu, khu du lịch liên hợp cao cấp.

 

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5.975 tỷ đồng, đạt 123,2% kế hoạch, tăng 54,6% so cùng kỳ. Đã tập trung chỉ đạo giải quyết những khó khăn trong xây dựng cơ bản, nhất là 16 công trình quan trọng của tỉnh và phối hợp thúc đẩy các công trình của Trung ương và nhà đầu tư trên địa bàn. Có nhiều cố gắng trong xử lý nợ đọng XDCB, bố trí tập trung vốn cho các dự án quan trọng, cấp bách, đảm bảo giải ngân vốn cho những công trình đã được ghi kế hoạch. Đã hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình như: Đường cơ động ven biển An Phú- An Hải, đường Độc Lập-Long Thuỷ, một số cầu trên trục giao thông dọc miền Tây… Dự án thứ ba cấp nước và vệ sinh các thị xã, thị trấn dự kiến hoàn thành cuối năm 2008. Tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thêm là 2201,8 tỷ đồng, tăng 19,3% so cùng kỳ.

 

- Công tác quản lý nhà nước về đầu tư, xây dựng có tiến bộ. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường quản lý đầu tư, xây dựng. Đã chỉ đạo, hướng dẫn điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng do biến động giá vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh. Công tác quản lý chất lượng công trình được tăng cường hơn trước, nhất là công tác hướng dẫn, kiểm tra nên đã hạn chế kịp thời những sai sót.

 

- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá, chi ngân sách đảm bảo thực hiện đúng theo dự toán và định mức phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, an ninh-quốc phòng của tỉnh. Tổng thu ngân sách ước thực hiện 870 tỷ đồng, đạt 100% dự toán tỉnh và 118,4% dự toán trung ương, tăng 4,4% so năm trước. Có 17/20 chỉ tiêu thu đạt và vượt dự toán. Tổng chi ngân sách ước 1.955,6 tỷ đồng, đạt 118,3% dự toán tỉnh. 

 

- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, về cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Tập trung sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước; nhìn chung qua sắp xếp nhiều doanh nghiệp đã cơ cấu lại lao động, tăng vốn điều lệ, sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong năm đã hoàn thành công tác chuyển đổi Công ty Xổ số kiến thiết thành Công ty TNHH một thành viên.  Ban hành Kế hoạch  thực hiện kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Tỉnh ủy khóa XIV về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Cấp mới đăng ký kinh doanh cho 217 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 891 tỷ đồng; nâng tổng số toàn tỉnh lên 1.045 doanh nghiệp (trong đó Cty TNHH 440, Cty cổ phần 94, DNTN 511). Các hợp tác xã tiếp tục được củng cố, đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 13 Ban chấp hành TƯ (khóa IX), tuy nhiên hiệu quả hoạt động vẫn còn thấp, chỉ có 82/211 HTX làm ăn hiệu quả.

 

- Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ sản xuất, đời sống bà con đồng bào ở miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục, y tế miền núi được đầu tư. Hệ thống các trường PTDT nội trú và trường THCS bán trú được xây dựng và nâng cấp. Tiếp tục triển khai chương trình 135 giai đoạn 2, chương trình 134 và một số chương trình mục tiêu khác trên địa bàn miền núi; tuy nhiên việc triển khai gặp một số khó khăn do quy định mức hỗ trợ còn thấp như: hỗ trợ xây dựng nhà ở (7 triệu đồng/nhà), hỗ trợ đất sản xuất (5 triệu đồng/ha)…

 

ke-081203.jpg

Xây dựng kè lấn biển ở thị trấn Sông Cầu (huyện Sông Cầu) - Ảnh: XUÂN HUY

 

2. Các lĩnh vực văn hóa-xã hội chuyển biến tích cực hơn.

 

- Quy mô trường lớp được mở rộng, chất lượng giáo dục được nâng cao. Trong các kỳ thi quốc gia và khu vực, học sinh Phú Yên tiếp tục đạt nhiều giải cao. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT là 80,89%, bổ túc THPT là 28,86%. Hoàn thành phổ cập THCS. Xây dựng được 01 trường THPT đầu tiên đạt chuẩn quốc gia. Đã kiểm tra, kịp thời phát hiện, khắc phục tình trạng học sinh không đủ điều kiện lên lớp và học sinh bỏ học giữa chừng. Năm học 2007-2008 số học sinh bỏ học giữa chừng là 3.154 em, chiếm 1,74% tổng số học sinh (giảm 268 em so năm học trước). Tiếp tục huy động nhiều nguồn vốn để xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp. Công tác khoa học công nghệ có tiến bộ; các đề tài được thực hiện khá phong phú ở nhiều lĩnh vực.

 

- Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều cố gắng. Đầu tư thêm trang thiết bị y tế một số khoa Bệnh viện đa khoa tỉnh và các bệnh viện huyện nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh. Tích cực triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, tuy nhiên chưa kịp thời khống chế sốt xuất huyết nên đã xảy ra dịch ở huyện Đồng Xuân. Các chỉ tiêu về mức giảm sinh, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi chưa đạt kế hoạch.

 

- Công tác thông tin, truyền thông được đẩy mạnh; hoạt động văn hóa, thể thao đảm bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Xã hội hóa  văn hóa, thể thao có nhiều khởi sắc, một số doanh nghiệp đã đầu tư nâng cấp, xây dựng điểm văn hóa, câu lạc bộ, khu vui chơi giải trí. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát triển ngày càng sâu rộng. 

 

- Giải quyết việc làm, giảm nghèo, chăm sóc trẻ em và chăm lo cho các đối tượng chính sách được thực hiện tốt. Có 4.466 hộ vươn lên thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 11,6% (giảm 2,3% so năm trước); không có hộ đói. Tiếp tục hỗ trợ xóa 1.222 nhà ở tạm cho hộ nghèo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được nâng lên 31,8% (tăng 2,9% so năm trước). Đặc biệt trong tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn nhưng công tác chăm lo thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công được đầy đủ, kịp thời; đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng chính sách.

 

3. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định; quốc phòng được củng cố và tăng cường. Đã tổ chức thành công diễn tập vận hành theo cơ chế 02 của Bộ Chính trị cho  huyện Tuy An, huyện Đồng Xuân và 30/30 xã, phường, đạt 100% KH. Giao quân đạt 100% chỉ tiêu. Công tác bảo đảm an ninh trật tự được tăng cường, đặc biệt là các huyện miền núi. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được thực hiện tốt. Tai nạn giao thông giảm cả 3 mặt; toàn tỉnh xảy ra 128 vụ (giảm 40 vụ); làm chết 134 người (giảm 36 người), bị thương 71 người (giảm 80 người). Đã chỉ đạo cưỡng chế, tháo dỡ dây chuyền chế biến đường xây dựng trái phép của Công ty TNHH rượu Vạn Phát đảm bảo đúng pháp luật. Sau khi cưỡng chế đã chỉ đạo giải quyết hết số mía còn lại ở nhà máy, ở các chân ruộng, không để dân thiệt hại về kinh tế.

 

4. Chính quyền các cấp được củng cố và kiện toàn, hoạt động có hiệu quả hơn; cải cách hành chính có tiến bộ.

 

- Đã hoàn thành “bước 1” việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và cấp huyện theo Nghị định số 13, 14 của Chính phủ đúng theo kế hoạch và triển khai thực hiện bước 2 về sắp xếp tổ chức bên trong, quyết định ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức 08 sở, ngành.  Thành lập BQL khu kinh tế Phú Yên trên cơ sở sáp nhập BQL các khu công nghiệp tỉnh và BQL đầu tư hạ tầng Nam Tuy Hoà-Vũng Rô. Tiếp tục kiện toàn các BQL dự án theo đúng chức năng nhiệm vụ được giao.

 

- Công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh tiếp tục có sự cải tiến, tăng cường kiểm tra, xử lý vướng mắc tại cơ sở. Việc tiếp nhận, xử lý, ban hành văn bản và xử lý công việc thường xuyên của Chủ tịch, các Phó chủ tịch UBND tỉnh ngày càng đi vào nề nếp. Theo chỉ đạo của Chính phủ, đã sửa đổi Quy chế làm việc của UBND tỉnh theo hướng tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh, thủ trưởng các ngành và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố trong công tác quản lý, điều hành và trong công tác tham mưu. 

 

- Tăng cường các biện pháp nhằm chấn chỉnh kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp. Duy trì làm việc vào ngày thứ bảy để tiếp nhận giải quyết các thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực. Cơ chế “một cửa” được thực hiện ở tất cả cơ quan hành chính nhà nước. Đã ban hành Quy chế “một cửa liên thông” phục vụ cho công tác thu hút đầu tư. Tiếp tục triển khai xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 ở 09 đơn vị.

 

5. Công tác Tư pháp, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo đều có sự tập trung chỉ đạo khá sâu sát, được Đoàn Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra trách nhiệm Chủ tịch UBND tỉnh vào năm 2008 đánh giá tốt.

 

Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Duy trì tốt lịch tiếp công dân hàng tháng của lãnh đạo tỉnh và các sở, ban, ngành, địa phương. Tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo từ cơ sở, góp phần phát hiện sớm, ngăn chặn và không để xảy ra các vụ việc phức tạp gây điểm nóng. Tuy nhiên, qua tiếp công dân và phân loại đơn thư cho thấy khiếu nại đông người vẫn xảy ra ở một số địa phương; các khiếu nại về đền bù giải phóng mặt bằng, khiếu nại về đất đai còn chiếm tỷ lệ cao với trên 47,7%. Thi hành án dân sự có chuyển biến tích cực, tỷ lệ thi hành án đạt 77%  so vụ việc đủ điều kiện thi hành. 

 

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Đã triển khai 74 cuộc thanh kiểm tra; kết thúc 64 cuộc và đang tiến hành thanh tra 10 cuộc. Qua kiểm tra, thanh tra đã phát hiện một số tiêu cực, chỉ đạo xử lý nghiêm theo pháp luật.    

 

6. Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được đẩy mạnh. Đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng tỉnh do Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt, triển khai Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện  phòng chống tham nhũng, lãng phí. Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý tài chính cho sở, ban, ngành và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đơn vị sự nghiệp có thu đã đem lại kết quả rõ rệt. Việc tổ chức hội họp, tiếp khách, tổng kết, kỷ niệm ngày truyền thống đều được thực hiện với tinh thần tiết kiệm, không liên hoan tiệc tùng lãng phí, toàn tỉnh có 29 sở, ban ngành thuộc khối tỉnh quản lý và UBND các địa phương không tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2007 với quy mô lớn. Quản lý, sử dụng các loại thiết bị, máy móc, vật tư, nhiên liệu, phương tiện đi lại của nhà nước... có chuyển biến tích cực. Triển khai thực hiện nghiêm túc việc kê khai, minh bạch tài sản và thu nhập theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng. Các vụ việc liên quan đến tiêu cực, tham nhũng được chỉ đạo đưa ra xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Đáng chú ý vụ tham ô tài sản xảy ra tại gói thầu số 4 công trình chống ngập lụt thành phố Tuy Hòa (kè Bạch Đằng) đã đưa ra xét xử sơ thẩm. Đã kết thúc điều tra giai đoạn 1 vụ tham ô tài sản xảy ra tại công trình chỉnh trị cửa sông Đà Nông, đang điều tra giai đoạn 2 phần đấu thầu, thi công và một số vụ tiêu cực khác mà dư luận xã hội quan tâm.

 

Đánh giá chung năm 2008 kinh tế-xã hội của tỉnh tiếp tục ổn định và có mặt phát triển. Rút kinh nghiệm vụ đông xuân, đã tập trung chỉ đạo sản xuất lúa hè thu nên năng suất đạt cao. Công nghiệp giữ mức tăng trưởng khá. Các ngành dịch vụ ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng, xuất khẩu tăng khá. Tiếp tục thu hút được nhiều dự án đầu tư có quy mô lớn. Thu ngân sách tiếp tục đạt khá, dự ước sẽ đạt kế hoạch HĐND tỉnh giao. An sinh xã hội bảo đảm; thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ cho nhân dân theo chủ trương của Chính phủ; không để người dân nào bị đói. Quan tâm chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường. Ổn định tổ chức bộ máy và sắp xếp cán bộ theo Nghị định 13, 14 của Chính phủ, không làm xáo trộn tư tưởng CBCC và ảnh hưởng đến thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, từng cấp. Chính quyền các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác cải cách hành chính tiếp tục đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Một số chủ trương về phân cấp bước đầu có hiệu quả. An toàn giao thông có tiến bộ, tai nạn giao thông giảm cả 3 mặt: số vụ, số người chết và số người bị thương. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có chuyển biến tích cực. 

 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chỉ đạo điều hành năm 2008 vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục, đó là:

 

- Về kinh tế: Tăng trưởng kinh tế không đạt chỉ tiêu đề ra, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Công tác phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, thuỷ sản nuôi tuy có cố gắng nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định cho công tác chăn nuôi. Tiến độ phần lớn dự án đầu tư, công trình XDCB chậm, giải ngân thấp, nhất là vốn chương trình MTQG, vốn trái phiếu Chính phủ. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư tuy có sự tập trung chỉ đạo nhưng vẫn còn chậm. Hiệu quả sử dụng đất còn thấp.

 

- Về văn hoá- xã hội:  Số học sinh bỏ học giữa chừng tuy có giảm so năm học trước nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ 1,74% tổng số học sinh toàn tỉnh. Việc chuyển các trường bán công sang dân lập tư thục chưa thực hiện được. Dịch bệnh sốt xuất huyết chậm khống chế. Đời sống của người có thu nhập thấp, người làm công ăn lương gặp khó khăn.

 

- Về an ninh quốc phòng: Công tác phòng chống tội phạm được tăng cường, nhưng số vụ phạm pháp hình sự còn cao. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn các huyện miền núi vẫn còn diễn biến phức tạp. Tai nạn giao thông đường bộ giảm nhưng chưa vững chắc. Khiếu nại, nhất là về thu hồi đất, bồi thường tái định cư ở một số địa phương  chưa được giải quyết kịp thời, thỏa đáng, dứt điểm.

 

- Về công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Cải cách hành chính chuyển biến còn chậm. Ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ công chức chưa cao. Công tác kiểm tra đôn đốc các ngành, các cấp trong việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh vẫn còn là khâu yếu. Công tác tham mưu của một số cơ quan chuyên môn còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật trong việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, họp, hội nghị  của một số sở, ngành, địa phương chưa nghiêm túc, cá biệt có những đơn vị thực hiện yếu kém kéo dài chậm khắc phục.  

 

Những tồn tại yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, ngoài các nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của lạm phát, thời tiết diễn biến bất thường, dịch bệnh… thì nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do: Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật vẫn chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong tổ chức và nhân dân. Việc triển khai các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật kịp thời nhưng tổ chức thực hiện ở một số địa phương, sở, ban, ngành còn chậm, thiếu chặt chẽ, thiếu kiểm tra, đôn đốc. Công tác phối hợp giữa một số sở, ngành và địa phương chưa đồng bộ. Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh trên một số lĩnh vực chưa được nhanh, nhạy.

 

PHẦN THỨ HAI

 

Nhiệm vụ kế hoạch và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội  năm 2009

 

Bước vào kế hoạch năm 2009, nước ta nói chung và tỉnh ta nói riêng có những thuận lợi cơ bản, đó là: điều kiện chính trị xã hội ổn định; môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; quan hệ và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Nền kinh tế tỉnh ta trong những năm qua có bước tăng trưởng khá cao. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục đạt được kết quả khả quan, thu hút thêm một số dự án có vốn đầu tư lớn của nước ngoài vào địa bàn, cùng với các dự án có vốn đầu tư lớn của Trung ương và của tỉnh đã và đang chuyển tiếp, đang triển khai; tăng trưởng kinh tế, nông nghiệp và thuỷ sản ổn định, sẽ tạo bước đột phá trong tăng trưởng kinh tế- xã hội năm 2009 và các năm tiếp theo bền vững.

 

Bên cạnh đó, tỉnh cũng sẽ gặp phải không ít khó khăn, thử thách do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế thế giới đang đứng trước nguy cơ suy thoái…Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế tỉnh còn hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Biến động của giá cả thị trường, dịch bệnh, ảnh hưởng thiên tai…vẫn luôn là những nguy cơ tiềm ẩn tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.

 

gat-081203.jpg

Nông dân thu hoạch lúa - Ảnh: D.T.XUÂN

 

Trong năm 2009, UBND tỉnh xác định mục tiêu phát triển là: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững. Tiếp tục thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế thấp nhất tác động tiêu cực của lạm phát. Chú trọng bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội. Tạo bước đột phá mới trong cải cách hành chính. Thực hiện phòng chống tham nhũng, chống lãng  phí, thực hành tiết kiệm có hiệu quả. Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đảm bảo an toàn giao thông, tiếp tục kiềm chế giảm tai nạn giao thông cả 3 mặt: số vụ, số người chết, số người bị thương.

 

Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2009 như sau:

 

* Chỉ tiêu về kinh tế:

 

- Tốc độ tăng GDP: 13,5%

 

Trong đó:          

 

Nông-lâm-thủy sản  tăng: 4%

 

Công nghiệp - Xây dựng tăng: 18,1%

 

Dịch vụ tăng: 14,5%

 

- Sản lượng lương thực có hạt: 320.000 tấn

 

- Tổng kim ngạch XK: 100 triệu USD

 

- Thu ngân sách trên địa bàn: 1.010 tỷ đồng

- Tổng vốn đầu tư phát triển: 8.370 tỷ đồng.

 

* Chỉ tiêu về xã hội:

 

- Mức giảm sinh: 0,5%o

 

- Mức giảm trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi: 2%

                                   

- Giải quyết việc làm: 25.500 lao động

 

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo: 2%.

 

* Chỉ tiêu về môi trường:

 

- Tỷ lệ độ che phủ rừng: 40%

 

- Tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước hợp vệ sinh: 92%

 

- Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh: 62%.

 

Để thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra, hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm 2009, tỉnh sẽ tập trung cho một số công tác trọng tâm sau đây:

 

1. Tiếp tục khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng tài chính và huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển, coi trọng tính bền vững và chất lượng tăng trưởng kinh tế; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm.

 

- Tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát theo chỉ đạo của Chính phủ và kế hoạch của UBND tỉnh. Điều hành linh hoạt bảo đảm vốn cho tăng trưởng hợp lý và ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh; tổ chức tốt thị trường nâng cao năng lực cạnh tranh. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường; kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết.

 

- Quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động số 30 của Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tiếp tục phát triển các chương trình về giống cây trồng, vật nuôi; đưa vào sản xuất các giống có năng suất, chất lượng, khả năng kháng sâu bệnh cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của từng vùng sản xuất. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, ứng dụng khoa học- công nghệ, cơ giới hóa phục vụ sản xuất. Đảm bảo chính sách tam nông, an ninh lương thực. Tổ chức các vùng sản xuất hàng hoá tập trung.  Duy trì ổn định quỹ đất trồng lúa 2 vụ ổn định, trong đó chú trọng xây dựng vùng lúa trọng điểm chất lượng cao. Gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất với tiêu thụ. Thực hiện tốt phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm. Ngăn chặn bệnh heo tai xanh tái phát; giữ vững địa bàn không có dịch cúm gia cầm. Tiếp tục đẩy mạnh quản lý, bảo vệ rừng, đầu tư và kêu gọi đầu tư để phát triển rừng kinh tế, góp phần tăng độ che phủ rừng theo chương trình mục tiêu. Hướng dẫn, giải quyết nhanh chóng các thủ tục nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án trồng rừng. Chú ý phương án sử dụng đất theo hướng doanh nghiệp liên doanh, liên kết với người dân trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi để thực hiện dự án trồng rừng. Phát triển khai thác xa bờ đi đôi với dịch vụ hậu cần trên biển. Chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản, đa dạng hóa đối tượng nuôi, hình thức nuôi, gắn với phát triển thủy lợi, xử lý môi trường, đảm bảo nguồn giống sạch bệnh phục vụ sản xuất. Xây dựng kế hoạch và triển khai công tác phòng chống thiên tai ngay từ đầu năm.

 

- Tăng cường quản lý Nhà nước về công nghiệp; bám sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp giúp tháo gỡ khó khăn kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh các hoạt động khuyến công. Kiểm tra, đôn đốc các dự án công nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Phối hợp thúc đẩy các dự án điện.  Đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh, phát triển thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới, nâng tỷ trọng xuất khẩu hàng đã qua chế biến. Xây dựng các cụm ngành nghề ở khu nông thôn theo hướng sản xuất tập trung, giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường. Tranh thủ nhiều nguồn vốn để tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, điểm công nghiệp.

 

- Mở rộng và nâng cao hơn nữa chất lượng các dịch vụ, tạo bước phát triển mạnh mẽ khu vực dịch vụ. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền các cam kết hội nhập WTO. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch; thu hút vốn đầu tư các dự án du lịch có quy mô hiện đại. Tổ chức thực hiện tốt các chương trình hợp tác về du lịch đã được ký kết, đồng thời mở rộng liên kết phát triển du lịch. Tổ chức triển khai tốt Đề án tổ chức kỷ niệm 400 năm Phú Yên gắn với Năm du lịch quốc gia 2011 theo kế hoạch 55/KH-UBND ngày 06/11/2008 của UBND tỉnh. Duy trì và xây dựng các thương hiệu mạnh trong dịch vụ vận tải; phát triển vận tải công cộng. Quảng bá nhằm tăng lượng hành khách đi máy bay, đồng thời làm việc với các bộ, ngành liên quan để mở tuyến bay đi Hà Nội. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm. Phát triển các dịch vụ mới trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, giáo dục và đào tạo…

 

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên, môi trường.  Đẩy mạnh tuyên truyền về bảo vệ môi trường. Thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp chủ động phòng ngừa suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường trong mọi hoạt động sản xuất và đời sống. Coi trọng bảo vệ môi trường ngay từ khi xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự án đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiếp tục có chính sách hỗ trợ thích hợp tích cực cho người dân ở những nơi nhà nước thu hồi đất, thực hiện tốt tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề, ổn định cuộc sống lâu dài. Tăng cường thanh kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

 

- Chú trọng quy hoạch, rà soát, điều chỉnh quy hoạch và quản lý quy hoạch, đảm bảo quy hoạch có tính khả thi cao, ngăn chặn tình trạng phát triển không có quy hoạch, sai quy hoạch. Tiếp tục rà soát, hiệu chỉnh, cập nhật, bổ sung các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm theo hướng phát triển bền vững gắn với Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tập trung hoàn thành quy hoạch vùng tỉnh Phú Yên đến năm 2025 và xây dựng quy hoạch khu kinh tế Nam Phú Yên; đồng thời quy hoạch bố trí, sắp xếp lại dân cư hợp lý.

 

- Tiếp tục thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư được sửa đổi, chính sách hậu kiểm đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư; quyết tâm đưa các dự án đã cấp phép đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về đầu tư phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư.

 

Tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh, làm tốt hơn nữa công tác xúc tiến đầu tư gắn với cải cách mạnh mẽ thủ tục đầu tư XDCB, rút ngắn tối đa thời gian chuẩn bị đầu tư để thu hút nhiều dự án đầu tư mới. Lựa chọn các nhà đầu tư có nhân thân và có năng lực tài chính tốt. Tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy các dự án quan trọng …Triển khai tốt các công việc thuộc trách nhiệm của tỉnh thực hiện các bước tiếp theo của Dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô; Dự án hạ tầng KCN hóa dầu Hoà Tâm và Tổ hợp hoá dầu Naphtha Cracking; Dự án Khu du lịch liên hợp cao cấp để khởi công năm 2009.

 

Tập trung các nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Bố trí vốn có trọng tâm, trọng điểm, tập trung đầu tư dứt điểm các công trình chuyển tiếp, kiên quyết không để tình trạng công trình thiếu vốn, hoặc tồn đọng vốn xây dựng cơ bản. Ưu tiên vốn ngân sách đầu tư cho chương trình nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn thực hiện vận động nhiều hình thức đầu tư như: xây dựng-khai thác-chuyển giao (BOT), xây dựng-chuyển giao (BT), xây dựng-chuyển giao-khai thác (BTO), tổng thầu “chìa khóa trao tay”. Hoàn thiện chính sách ưu đãi khuyến khích thu hút đầu tư vào khu kinh tế Nam Phú Yên. Triển khai thực hiện Quy chế đấu thầu xây dựng công trình thanh toán bằng tiền và quyền sử dụng đất thuộc dự án Hạ tầng đô thị Nam Tuy Hòa-Vũng Rô nhằm thu hút các nhà đầu tư tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng.

 

Tập trung chỉ đạo quyết liệt, xử lý vướng mắc, khó khăn, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình XDCB, nhất là các công trình quan trọng. Đưa dự án khu nông nghiệp công nghệ cao Hòa Quang vào danh mục các công trình quan trọng của tỉnh. Hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình lớn như: kè Bạch Đằng, phần xây lắp Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh, tuyến đường phía Bắc cầu An Hải đến gành Đá Đĩa, dự án năng lượng nông thôn REII, hệ thống cầu trên trục giao thông phía tây của tỉnh; các tiểu dự án của dự án khắc phục khẩn cấp thiên tai; khu dân cư Phú Lạc, khu dân cư và khu hành chính mới Hoà Tâm để phục vụ tái định cư cho các dự án lọc dầu, hoá dầu. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các công trình: cầu Hùng Vương, kè chống xói lở bờ Nam hạ lưu sông Đà Rằng; hạ tầng đô thị mới Nam thành phố Tuy Hòa; trục giao thông phía Tây, kè chống xói lở bờ sông, bờ biển; DA cải thiện điều kiện vệ sinh và môi trường TP Tuy Hoà...Triển khai tốt các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) trên địa bàn tỉnh. Phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ một số công trình lớn của Trung ương như: thủy điện sông Ba hạ, thuỷ điện Krông năng… Hoàn chỉnh thủ tục hồ sơ và khởi công xây dựng các dự án: Hồ chứa nước Suối Vực; Trường Đại học Phú Yên; chương trình kiên cố hóa trường lớp học; các bệnh viện huyện, thành phố, bệnh viện Đa khoa phía bắc tỉnh (Tuy An), một số trường THPT ở vùng căn cứ cách mạng bằng vốn trái phiếu Chính phủ và một phần vốn trái phiếu Chính phủ với vốn CTMTQG và ngân sách tỉnh. Tích cực làm việc với các bộ, ngành trung ương thúc đẩy đầu tư các dự án lớn có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh gắn với phát triển kinh tế vùng.

 

- Chỉ đạo quyết liệt trong thu ngân sách, nuôi dưỡng nguồn thu bằng cách phải thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, có thu nhập, có nộp ngân sách…, chống thất thu thuế đảm bảo các yêu cầu chi đã được bố trí, ưu tiên chi đầu tư phát triển. Tiếp tục đơn giản hóa và công khai minh bạch các thủ tục nộp ngân sách Nhà nước. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách. Tiếp tục triển khai bán đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư XDCB. Tạo nguồn để thực hiện cải cách tiền lương. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc chi tiêu ngân sách, quản lý tài sản công.

 

- Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế. Tạo điều kiện thuận  lợi trong việc cho vay vốn, giải quyết các khó khăn, vướng mắc để các thành phần kinh tế ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục sắp xếp 03 Doanh nghiệp Nhà nước là: Công ty TNHH Một thành viên Quản lý và Xây dựng đường bộ, Công ty TNHH Một thành viên Phát triển nhà và công trình đô thị, Công ty TNHH Một thành viên Đầu tư và phát triển Khu Công nghiệp. Tiếp tục phát triển mạnh thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra doanh nghiệp sau thành lập và đăng ký kinh doanh. Đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể theo Kế hoạch số 46 ngày 25/9/2008 của UBND tỉnh. Đánh giá, phân loại các HTX đang hoạt động để có giải pháp củng cố, phát triển, lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm hoạt động HTX.

 

- Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bà con ở khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.  Duy trì và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Củng cố và giữ vững an ninh quốc phòng khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức hội nghị Già làng, trưởng thôn buôn lần thứ 3 vào năm 2009.

 

kham-benh-081203.jpg

Tăng cường chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong ảnh: Khám bệnh cho trẻ em ở Bệnh viện Đa khoa Sơn Hòa - Ảnh: THU THỦY

 

2. Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng hoạt động các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thể thao, lao động thương binh xã hội.

 

Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô giáo dục đào tạo; gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo, tăng cường hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng. Đổi mới quản lý giáo dục, tăng quyền chủ động cho các trường học, cơ sở giáo dục đào tạo. Hoàn thành phân cấp kinh phí cho các trường học. Chăm lo phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Hạn chế tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh phổ cập giáo dục. Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị trường học theo hướng kiên cố, hiện đại; xây dựng các trường học đạt chuẩn quốc gia. Tăng cường tiếp thu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực khám điều trị bệnh của đội ngũ y bác sỹ. Đảm bảo phòng chống dịch bệnh; quan tâm phòng chống HIV/AIDS. Chú ý kiểm tra thường xuyên đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em; thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mức giảm sinh vững chắc. 

 

Phát triển văn nghệ, thể thao quần chúng, đồng thời chuyên nghiệp hóa các hoạt động văn hóa thể thao. Tổ chức các hoạt động chào mừng 1.000 năm Thăng Long Đông Đô Hà Nội và các hoạt động kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Phú Yên. Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin, truyền thông, đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác. 

 

Đảm bảo thực hiện các chính sách an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân, nhất là những đối tượng nghèo. Thúc đẩy xóa nhà ở tạm cho hộ nghèo. Gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ. Tiếp tục thực hiện chương trình chăm sóc, nâng cao mức sống người có công giai đoạn 2008-2010; nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần cho đối tượng chính sách. Tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm từng bước đáp ứng các nhu cầu và các quyền cơ bản của trẻ em.

 

3. Củng cố nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp giữa các lực lượng vũ trang. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Chỉ đạo tốt công tác giao quân. Chú trọng giáo dục quốc phòng. Tăng cường bảo vệ an ninh vùng biển. Làm tốt công tác phòng chống tội phạm; giải quyết triệt để các vụ việc phức tạp về an ninh trật tự từ cơ sở, không để phát sinh các điểm nóng. Triển khai quyết liệt, đồng bộ, kiên trì các giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.  Thúc đẩy các dự án quốc phòng, an ninh. 

 

4. Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền các cấp, các cơ quan chuyên môn tỉnh; tạo bước đột phá trong cải cách hành chính.

 

- Xây dựng và triển khai đề án thí điểm không tổ chức HĐND cấp huyện, phường. Nâng cao hiệu quả hoạt động các BQL dự án theo hướng chuyên nghiệp, đủ sức quản lý các dự án ngày càng có quy mô lớn, hiện đại. Hoàn chỉnh Đề án nâng huyện Sông Cầu lên thị xã; làm việc các bộ, ngành trình Chính phủ. Triển khai có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng trí thức. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, gắn với giáo dục về đạo đức, lối sống. Chuyển một số giáo viên có trình độ Đại học đủ điều kiện ở bậc THCS sang giảng dạy ở bậc THPT để giải quyết giáo viên thừa hiện có ở các huyện, thành phố.

 

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, tạo bước đột phá về thời gian và chất lượng. Cải cách thủ tục ở những khâu công việc còn vướng mắc; kiên quyết loại bỏ các thủ tục không cần thiết và công khai minh bạch các thủ tục hành chính; giảm thời gian xử lý, giảm phiền hà, tăng lòng tin của dân vào Đảng, chính quyền. Thực hiện cơ chế “ một cửa liên thông” tại 3 đơn vị: Văn phòng UBND tỉnh, Sở Kế hoạch Đầu tư và UBND thành phố Tuy Hoà. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào quản lý hành chính Nhà nước; từng bước hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước, kiên quyết giảm hội họp. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các sở, ban, ngành với nhau và với các địa phương. Tăng cường kỷ cương kỷ luật trong thực hiện chế độ hội họp, thông tin, báo cáo, thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Tiếp tục triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong các cơ quan hành chính nhà nước.

 

5. Tiếp tục cải cách trong công tác tư pháp, chỉ đạo tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại-tố cáo; tập trung kiểm tra, thanh tra.

 

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tạo chuyển biến mạnh về ý thức pháp luật trong nhân dân. Coi trọng công tác tiếp công dân. Tập trung giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo tồn đọng kéo dài còn 33 vụ; không để khiếu kiện đông người, vượt cấp; đôn đốc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo. Tổ chức đối thoại với dân, kịp thời xử lý khiếu nại từ khi mới phát sinh. Nâng cao tỷ lệ thi hành án dân sự.

 

- Củng cố, kiện toàn lực lượng thanh tra tỉnh, huyện, thành phố và thanh tra ngành đủ sức hoạt động theo yêu cầu công tác thanh tra của Chính phủ, của Tỉnh. Xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra của UBND tỉnh và các sở, ban, ngành ngay từ đầu năm. Nâng cao chất lượng kiểm tra, thanh tra, không để tình trạng chồng chéo giữa các đoàn thanh tra, gây cản trở hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Các cuộc thanh tra phải thực hiện nhanh, gọn, kết quả xử lý phải được công khai và  thực hiện kịp thời, dứt điểm. Ngoài thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thanh tra đột xuất khi cần thiết. Đẩy mạnh quản lý và giám sát đối với các lĩnh vực: đầu tư XDCB, đất đai, thu-chi ngân sách, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường ở các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp…để chấn chỉnh kịp thời các sai sót. Năm 2009 sẽ tập trung thanh tra công tác cổ phần hóa doanh nghiệp, quản lý đất đai, khoáng sản, sử dụng tài sản công…

 

6. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

 

Thực hiện đồng bộ Nghị quyết Trung ương 3, các luật, Nghị định của Chính phủ và chương trình hành động của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng tỉnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tăng cường công tác chỉ đạo của Đảng, tự thanh tra của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị để phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất, tiêu dùng, chi tiêu ngân sách và sử dụng tài sản công. Tiếp tục khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính cho các cơ quan nhà nước, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế, kinh phí cho các đơn vị sự nghiệp có thu, trên cơ sở đó các cơ quan đơn vị ban hành quy chế chi tiêu nội bộ để chi tiêu ngân sách, sử dụng tài sản công theo hướng tiết kiệm và mang lại hiệu quả cao nhất.

 

*  *  *

 

Những mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ cụ thể đã đặt ra cho năm 2009 là hết sức nặng nề, với trách nhiệm của mình UBND tỉnh sẽ nỗ lực tập trung chỉ đạo, điều hành; đồng thời đề nghị Tỉnh uỷ quan tâm lãnh đạo, HĐND tỉnh, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tạo điều kiện hỗ trợ, giám sát và kêu gọi nhân dân đồng thuận ủng hộ để cùng UBND tỉnh vượt qua khó khăn thách thức. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm thi đua hoàn thành thắng lợi kế hoạch đề ra năm 2009, góp phần hoàn thành nhiệm vụ Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ 14 vào năm 2010.

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek