BÀI CUỐI: Tổng tấn công
Tháng 12/1967, nhận định: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, Mỹ - ngụy đang ở thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”, Bộ Chính trị quyết định “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng phương thức tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
Theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Quân chủng Hải quân chuẩn bị 4 tàu vận chuyển vũ khí chi viện miền Nam trong thời điểm đặc biệt này.
Bức điện cuối cùng và những con tàu bất tử
Lữ đoàn 125 cử 4 tàu 43B, 56, 165 và 235. Tàu 165 vào bến Vàm Lũng - Cà Mau; Tàu 43B vào bến Đức Phổ - Quảng Ngãi; Tàu 56 vào bến Lộ Diêu - Bình Định và Tàu 235 vào bến Hòn Hèo - Khánh Hòa. 4 tàu xuất phát ở 4 địa điểm khác nhau, múi giờ khác nhau nhưng vào bến cùng một giờ một ngày. Tàu nào thuận lợi thì vào bến giao hàng. Tàu nào gặp địch thì nghi binh thu hút địch để tàu khác vào bến.
Tàu 165 do Nguyễn Chánh Tâm làm thuyền trưởng, Nguyễn Ngọc Lương làm chính trị viên chở 64 tấn vũ khí xuất phát đêm 25/2/1968. Trên đường đi nhiều lần gặp máy bay địch theo dõi. Ngày 29/2 khi chuyển hướng vào bến thì gặp 8 tàu địch hình thành thế bao vây, thuyền trưởng ra lệnh sẵn sàng chiến đấu. Tàu địch và máy bay tập trung bắn xối xả vào tàu ta. Tàu 165 vừa nổ súng đánh trả vừa tăng tốc độ chạy thẳng vào bờ. Đến 18 giờ ngày 29/2, Sở Chỉ huy Hải quân nhận được bức điện cuối cùng: “Chuyến vào gặp địch đánh nhau” rồi sau đó mất liên lạc hoàn toàn.
Các đồng chí ở bến Cà Mau có kể lại rằng: “Đêm 29/2, họ nhìn thấy phía biển có nhiều ánh lửa và đường đạn vạch lên trời. Máy bay địch thả pháo sáng suốt đêm. Mấy ngày sau đó, bến cử một số anh em đi tìm kiếm song chỉ nhìn thấy nhiều mảnh gỗ có vết đạn trôi dạt vào bờ”.
Sở Chỉ huy nhận định: “Tàu 165 trên đường vào bến gặp địch đã ngoan cường dũng cảm chiến đấu, quyết không để tàu và hàng rơi vào tay địch, các đồng chí đã cho nổ khối bộc phá phá tàu, 18 cán bộ thủy thủ đã anh dũng hy sinh cùng con tàu 165 bất tử”.
Tàu 43B do Nguyễn Đắc Thắng làm thuyền trưởng, Trần Ngọc Tuấn làm chính trị viên chở 47 tấn vũ khí chi viện cho Khu 5 vào bến Đức Phổ - Quảng Ngãi xuất phát ngày 26/2/1968. Tàu đi trên biển Đông nhiều lần gặp máy bay trinh sát quần lượn rồi bỏ đi, nhưng thực chất địch đã bố trí tàu dùng ra đa theo dõi từ xa.
Ngày 29/2, trên đường tàu chuyển hướng vào cách bờ 12 hải lý thì 6 tàu chiến và máy bay bắn xối xả vào tàu. Thuyền trưởng tổ chức cho anh em dùng tất cả hỏa lực đánh trả quyết liệt, vừa chiến đấu vừa cho tàu cơ động vào bờ. Một chiếc trực thăng địch bốc cháy, 1 tàu PCF của địch bị DKZ tàu ta bắn chìm, mấy chiếc khác giãn ra. Lúc này 2 đồng chí hy sinh và 3 đồng chí bị thương. Sau nhiều phút đọ súng, biết lực lượng địch đông, nếu tiếp tục chiến đấu, anh em sẽ thương vong nhiều, thuyền trưởng lệnh cho thuyền phó Thơm đập thùng khói mù làm màn che khuất cho tàu lao vào bờ và hủy tàu. Được du kích và bà con xã Phổ Hiệp cấp cứu đưa về hầm bí mật nuôi dưỡng, sau khi sức khỏe hồi phục, địa phương tổ chức đưa thủy thủ đoàn lên trạm xá xã (nay là Bệnh xá Đặng Thùy Trâm) điều trị và trở về miền Bắc.
Tàu 56 do Nguyễn Văn Ba làm thuyền trưởng, Đỗ Văn Sạn làm chính trị viên chở 37 tấn vũ khí xuất phát ngày 26/2/1968 mà điểm đến là bến Lộ Diêu - Bình Định.
Tàu chạy trên đường biển quốc tế thường xuyên gặp máy bay và tàu chiến Mỹ theo dõi giám sát. Ngày 29/2, tàu chuyển hướng vào bờ, đến 17 giờ, phát hiện một tàu địch chặn trước mũi, Tàu 56 tránh sang trái, sau đó thì máy bay và tàu chiến địch đeo bám, rọi đèn pha, bắn dọa khiêu khích, phát loa gọi đầu hàng… Mọi diễn biến trên biển Tàu 56 đều báo cáo về Sở Chỉ huy và được Sở Chỉ huy phán đoán có thể địch chưa biết chính xác đó là tàu của ta nên chỉ đạo Tàu 56 ngụy trang kỹ, tìm cách tránh né quay ra công hải chờ lệnh.
Trên đường Tàu 56 quay ra, 3 tàu địch tăng tốc đuổi theo hòng chặn lại. Cuộc đấu trí mỗi lúc một căng thẳng, chẳng những với địch mà với nội bộ tàu, bởi đa số đều cho rằng nên cho tàu ra công hải chờ lệnh vừa bảo toàn bí mật con tàu và tuyến đường đi nhưng cũng có người bảo nên cho tàu vừa nổ súng vừa lao vào bờ. Được Sở Chỉ huy động viên, chỉ đạo, cán bộ chiến sĩ Tàu 56 vững vàng đảm bảo yếu tố bí mật, giữ vững đối sách, giữ thế hợp pháp trên vùng biển quốc tế, vượt ra ngoài vòng kiểm soát của địch quay về bến an toàn.
Đêm 27/2, tại một địa điểm khác, Tàu 235 do Nguyễn Phan Vinh làm thuyền trưởng, Nguyễn Tương làm chính trị viên chở 16 tấn vũ khí xuất phát lên đường chi viện cho Khánh Hòa vào bến Hòn Hèo.
Sau hai ngày hành quân trên vùng biển quốc tế đến ngày 29/2, tàu ngang vùng biển Nha Trang. Lúc 18 giờ, 1 máy bay trinh sát bay qua tàu, tàu ta vẫn hành trình theo kế hoạch. Mặc dù có máy bay bám theo nhưng Tàu 235 vẫn quyết định vào bến.
Phát hiện tàu ta, địch huy động 3 tàu chiến có phiên hiệu Ngọc Hồi, HQ12, HQ617 cùng 4 tàu khác bao vây hòng bắt gọn tàu ta. Thuyền trưởng Vinh lệnh tắt hết đèn, cho luồn lách qua các bãi đá ngầm vào bến rồi lập tức thả hàng xuống biển để bến vớt sau.
Phát hiện Tàu 235 gần bờ, các tàu địch tập trung nổ súng, ngăn không cho ta chạy thoát. 5 thủy thủ hy sinh, 7 người bị thương. Thuyền trưởng Vinh cũng bị thương ở đầu nhưng anh tự băng bó và tiếp tục chỉ huy anh em chiến đấu. Lúc này khoang máy bị trúng đạn, tàu không cơ động được nữa. Thuyền trưởng cho anh em đưa thương binh và liệt sĩ vào bờ còn mình và thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại chuẩn bị bộc phá phá tàu rồi mới bơi vào bờ. Lợi dụng hố bom làm công sự, hai người tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh.
Giải phóng Trường Sa
Sau khi giải phóng Đà Nẵng, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi đánh chiếm các đảo do quân ngụy chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa”.
Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng Hải quân nhanh chóng triển khai kế hoạch vận chuyển bộ đội, vũ khí, trang bị kỹ thuật với số lượng cao nhất, thời gian nhanh nhất và an toàn vào mặt trận. Đoàn 125 được phân công là lực lượng chủ yếu thực hiện nhiệm vụ này.
Ngày 10/4/1975, Bộ Tư lệnh Hải quân cấp tốc điều 3 tàu vận tải của Đoàn 125, gồm: Tàu 673 do đồng chí Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng, Tàu 674 do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm thuyền trưởng và Tàu 675 do đồng chí Phạm Duy Tam là thuyền trưởng, làm nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Lực lượng chiến đấu lúc ấy gồm: Đội 1 của Trung đoàn 126, một số đội đặc công của Quân khu 5.
Chỉ trong 3 ngày đêm, những con tàu Không số đã vượt gần 500 hải lý đến Trường Sa. Trong đêm tối mịt mùng, đoàn quân giải phóng xác định chính xác mục tiêu cần tiếp cận là đảo Song Tử Tây. Đến rạng sáng 14/4, chỉ trong 30 phút nổ súng, bộ đội ta làm chủ đảo Song Tử Tây và lập tức đưa quân lên để chiếm giữ đảo, đúng như kế hoạch.
Thừa thắng xông lên, bộ đội ta tiếp tục tiến đánh và chiếm các đảo còn lại. Đến 2 giờ sáng 29/4, Trường Sa hoàn toàn giải phóng.
Giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do quân ngụy Sài Gòn đóng, cán bộ chiến sĩ Đoàn tàu Không số đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ năm 1961-1975, Đoàn tàu Không số đã huy động 1.879 lần/chiếc tàu, vận chuyển 150.000 tấn vũ khí và hơn 80.000 lượt/người (trong đó có các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội) vượt qua 20 cơn bão, chiến đấu với 30 lần tàu chiến, 120 lần máy bay, khắc phục hơn 40.000 quả thủy lôi, bắn rơi 5 máy bay, bắn chìm nhiều tàu chiến, bắt sống 33 tù binh. Đơn vị 2 lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 11 tàu và 20 cán bộ, thủy thủ cũng được phong tặng, truy tặng danh hiệu cao quý này. |
HỒ ĐẮC THẠNH
Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Thuyền trưởng Tàu 41 Đoàn tàu Không số