13. Châu bản ngày 19 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 19 (1838) (1)
Xuất xứ: Quan Bố chính tỉnh Quảng Ngãi
Nơi lưu trữ: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Ký hiệu: Tập 64, tờ 146-147
Dịch nghĩa:
Ngày 19 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 19.
Quan Bố chính sứ tỉnh Quảng Ngãi được ghi công 7 lần là Đặng Đức Thiệm kính cẩn tấu trình việc xin miễn trừ các hạng thuế thuê thuyền đi làm việc công, cúi mong bề trên soi xét.
Ngày tháng Giêng năm nay, tiếp nhận lệnh sai người đi lo liệu việc công ở Hoàng Sa của Bộ Công trong đó có một khoản: Năm nay kỳ hạn sai người ra khơi đến xứ Hoàng Sa để khảo sát, đo vẽ toàn bộ vùng đó, thời gian định vào hạ tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 6 thì về thẳng cửa Thuận An đến kinh. Bộ thần ấy còn gửi tư lệnh cho tỉnh thần thuê, điều động trước 2 thuyền cùng dân phu và dân thuyền để chuẩn bị cho việc sai phái, thay người.
Vâng theo chỉ chuẩn của nhà vua, lần này thần đã thuê, điều động 2 chiếc thuyền lớn tại bản hạt cùng với 2 thuyền của tỉnh Bình Định đang neo đậu tại đấy theo phái viên đến Hoàng Sa thực hiện công vụ.
Nay thuyền đã trở về, thần xin đem số thuyền thuê quá lệ để xin miễn trừ thuế năm nay. Thuế khóa của thuyền bè là rất quan trọng, thần xin làm tờ tấu trình, cúi mong nhận được chỉ chuẩn.
Tất cả các hạng thuyền phải nộp thuế cả năm là bao nhiêu cùng tên, tuổi, quê quán của chủ thuyền, theo từng khoản cung kính ghi phía sau. Thần kính cẩn tấu trình.
Vâng mệnh điều động 2 thuyền lớn, theo lệ thuế tiền là 35 quan.
Tên Tín, tức Nguyễn Văn Chòm, sinh năm Bính Ngọ, 53 tuổi, người ấp Phổ An phía dưới tổng Nghĩa Hà, huyện Chương Nghĩa, phủ Tư Nghĩa. Một thuyền lớn (biển số 22), dài 2 trượng 7 thước; rộng 6 thước 7 tấc; sâu 2 thước 1 tấc. Lệ thuế tiền 20 quan.
Tên Ân, tức Trần Văn Đức, sinh năm Canh Tí, 59 tuổi, người xã... Một thuyền lớn (biển số 89), dài 2 trượng 1 tấc; rộng 6 thước 7 tấc; sâu 2 thước, 3 tấc. Lệ thuế tiền 15 quan.
[Tờ tấu] gửi ngày 19 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 19 đến ngày 4 tháng 8, thần Hà Duy Phiên, thần Vũ Đức Khuê, thần Phan Thanh Giản, thần Đoàn Khiêm Quang vâng mệnh truyền chỉ: Y tấu, hãy tuân mệnh.
Thần Đặng Đức Thiềm ký (2).
14. Châu bản ngày 26 tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) (3)
Xuất xứ: Bộ Công
Nơi lưu trữ: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Ký hiệu: Tập 41, tờ 42
Dịch nghĩa:
Ngày 26 tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 7
Bộ Công [tâu]:
Vâng sắc giao cho bộ lưu giữ hồ sơ ghi ngày tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) hoãn việc phái [người] đi thăm dò, khảo sát Hoàng Sa, đến năm sau phúc trình lại đợi chỉ. Hãy tuân mệnh.
Nay [bộ thần] xin phúc tâu việc có nên phái người đi [thăm dò, khảo sát Hoàng Sa] nữa hay không? [Bộ thần] tâu trình đợi chỉ.
Thần Nguyễn Đình Phượng vâng mệnh khảo.
Thần Đào Sĩ Huống vâng mệnh soạn tấu.
Thần Lâm Duy Nghĩa, thần Nguyễn Văn Điển, thần Trương Quốc Dụng phụng mệnh đọc duyệt.
[Châu phê]: Dừng lại (4).
15 Châu bản ngày 28 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847)(5)
Xuất xứ: Bộ Công
Nơi lưu trữ: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Ký hiệu: Tập 51, tờ 235
Dịch nghĩa:
Ngày 28 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 7
Bộ Công [tâu]:
Chiểu theo lệ, xứ Hoàng Sa là bờ cõi trên biển của nước ta, hàng năm có phái binh thuyền đến thăm dò để thuộc lộ trình đường biển. Ngày tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), vâng theo lời huấn thị: năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), hoãn việc phái binh thuyền [đi khảo sát], đến năm sau phúc trình lại. Hãy tuân mệnh.
Ngày tháng Giêng năm nay, bộ thần đã phúc trình đầy đủ, được châu phê: Dừng lại.
Đầu xuân, đã đến kỳ đi khảo sát. Điều cần thiết là phải chuẩn bị đầy đủ trước. Nhưng xét thời gian này việc công quá bận rộn, xin dừng việc đi khảo sát đầu xuân năm nay, đợi năm sau phúc trình lại. Vậy xin tâu trình đợi chỉ, [để] chiểu theo thi hành. Vậy xin tấu trình.
Thần Nguyễn Hữu Độ phụng mệnh khảo.
Thần Nguyễn Trực phụng mệnh soạn thảo.
Thần Nguyễn Văn Điển, thần Trương Quốc Dụng, thần Nguyễn Đình Hưng phụng mệnh đọc duyệt.
Châu phê: Dừng lại. (6)
(Còn nữa)
---------------------
(1) Dẫn theo: Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới Quốc gia, Sách đã dẫn, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr. 180-183.
(2) Cuối châu bản có đóng dấu Ngự tiền chi bửu bằng mực đỏ tại chữ 欽此 (khâm thử).
(3) Dẫn theo: Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới Quốc gia, Sách đã dẫn, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr. 188-191.
(4), (6) Nguyên văn: 停 (đình) viết theo lối viết giản thể, do vua Thiệu Trị châu phê bằng mực đỏ ở phía trên câu đầu tiên của văn bản.
(5) Dẫn theo: Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới Quốc gia, Sách đã dẫn, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr. 196-199.