Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ tỉnh Phú Yên có nhiều chuyển biến tích cực, đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Tuy nhiên, khó khăn về kinh phí từ chương trình mục tiêu quốc gia ngày càng eo hẹp, thiếu nhân lực và hạn chế từ hệ thống y tế cơ sở đang là những thách thức không nhỏ.
Bác sĩ Nguyễn Anh Tuấn tập huấn sức khỏe sinh sản cho nhân viên y tế tuyến huyện - Ảnh: T.DIỆU
Nhóm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49) và phụ nữ mang thai là đối tượng chính trong các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS). Tính đến năm 2013, ở gói dịch vụ KHHGĐ, có hơn 56.000 người sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại (bao cao su, thuốc uống, thuốc tiêm tránh thai, dụng cụ tử cung...) đạt 107% kế hoạch; hơn 35.000 phụ nữ được khám phụ khoa, trong đó có hơn 13.000 chị, em có bệnh được chữa trị đạt trên 100% kế hoạch đề ra. Điều đáng mừng là hầu hết phụ nữ mang thai ở Phú Yên được khám thai từ 3 lần trở lên, được chẩn đoán phát hiện thai có nguy cơ cao, sinh nở và chăm sóc ở các cơ sở y tế… Thêm vào đó, nhiều phụ nữ tiếp cận được các dịch vụ xét nghiệm sàng lọc tiền ung thư cổ tử cung. Đến nay, Phú Yên đã đạt mức sinh thay thế là 2,01 con; phần lớn phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, phụ nữ mang thai đều có ý thức chăm sóc và nâng cao sử dụng các dịch vụ chăm sóc SKSS.
Tuy nhiên, trong năm, các chỉ tiêu về chất lượng dân số như: tỉ suất trẻ em dưới 5 tuổi tử vong là 23,8‰; tỉ suất bà mẹ tử vong do tai biến sản khoa chiếm gần 63‰, có đến 74 trường hợp, tăng 8 trường hợp so với năm trước, trong đó, băng huyết và sản giật là 2 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu; có 85 ca nạo phá thai tăng 0,04‰ so với cùng kỳ năm trước…
Trong khi đó, tại các cơ sở y tế huyện, xã có hơn 60% thai phụ thực hiện các dịch vụ, còn tồn tại các thiếu sót chưa thể giải quyết như: Sự phân tán và thiếu cục bộ bác sĩ sự nghiệp; các trạm y tế chịu áp lực chỉ đạo của nhiều đơn vị cùng lúc (quản lý ngành trực tiếp của trung tâm y tế huyện, quản lý điều trị của bệnh viện huyện). Đội ngũ cán bộ chuyên môn khối nữ hộ sinh mới đào tạo chưa đủ kinh nghiệm, kỹ năng đáp ứng yêu cầu công việc. Thêm vào đó, nguồn kinh phí của Trung ương đầu tư vào Chương trình mục tiêu quốc gia Phục vụ chăm sóc SKSS-KHHGĐ giảm hơn một nửa gây thêm nhiều áp lực trong công tác khám và điều trị...
Để khắc phục những khó khăn, hoàn thành các chỉ tiêu chuyên môn, trong thời gian đến, ngành DS-KHHGĐ nói chung, Trung tâm Chăm sóc SKSS tỉnh nói riêng tiếp tục thực hiện đầy đủ các nội dung thiết yếu và nâng cao, cập nhật theo hướng dẫn quốc gia về dịch vụ SKSS; củng cố quản lý, giám sát không để xảy ra tình trạng chết mẹ, chết con do thiếu tinh thần trách nhiệm trong điều trị tập trung, phòng chống tai biến sản khoa trong giai đoạn chuyển dạ, phòng chống chết trẻ sơ sinh; tăng cường công tác phối kết hợp giữa Trung tâm Chăm sóc SKSS với Bệnh viện Sản - Nhi, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe, Chi cục DS/KHHGĐ trong việc lồng ghép truyền thông, điều trị và chăm sóc SKSS; phối hợp với các hội: phụ sản, KHHGĐ, y tế thôn bản góp phần tư vấn, phản biện, vận động nguồn xã hội hóa tham vấn cho Sở Y tế, Mặt trận Tổ quốc và Liên hiệp hội có những quyết sách thỏa đáng trong việc cập nhật kỹ thuật, thông tin phát đồ điều trị và chính sách thu hút, hỗ trợ cán bộ…
Bên cạnh những nỗ lực của ngành, Bộ Y tế cần tăng cường đầu tư tài chính cho chương trình mục tiêu quốc gia; Sở Y tế tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh hỗ trợ công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho nữ hộ sinh tuyến huyện (từ trung cấp lên cao đẳng, cử nhân hộ sinh); sớm nâng cấp và mở rộng Bệnh viện Sản - Nhi lên quy mô 300 đến 400 giường bệnh để chống quá tải…
BS NGUYỄN ANH TUẤN
Giám đốc Trung tâm Chăm sóc SKSS Phú Yên