Năm 2009 là năm Kỷ Sửu, năm con trâu. Từ lâu, con trâu không chỉ là đầu cơ nghiệp đối với gia đình nhà nông, mà còn cho thịt, da, xương… và nhiều vị thuốc quí.
Ảnh minh họa
Y học cổ truyền gọi thịt trâu là Thủy ngưu nhục. Thịt trâu mát, ngọt, không độc. Dùng thịt trâu chữa được bệnh dạ dày; làm lá lách điều hòa; gan, xương được cứng; chữa phong thấp sưng đau, phù da, nề thịt.
Thịt trâu hơn nhiều loại thịt vẫn ưa dùng và dùng nhiều, ở độ bổ dưỡng tăng cường sức khỏe. So sánh thì thấy: 100g thịt trâu cung cấp đến 232 calo; trong khi 100g thịt bò loại 1 chỉ cho 171 calo; thịt lợn nạc cho 143 calo.
Sừng trâu cũng chữa được một số bệnh. Y học cổ truyền gọi sừng trâu là Ngưu giác. Tính vị của sừng trâu là: lạnh, đắng, không có độc tố; chữa được bệnh nhức đầu, thương hàn, sốt nóng, lậu huyết, phong đờm, tê thấp sưng đau, cổ họng có mụn ở trong.
Y học cổ truyền gọi keo da trâu là Minh giao, có tính vị: bình hòa, ngọt, không độc. Công dụng của keo da trâu: Chữa ung nhọt, bệnh mất máu, phong thấp sưng đau, đờm kết, hư hao sức yếu.
Con trâu còn cho vị thuốc gọi là Ngưu hoàng, tức là sỏi mật của con trâu có bệnh, già nua… Ngưu hoàng chứa trong túi mật hay ống mật. Khi giết trâu nếu không lấy Ngưu hoàng ngay thì dịch mật sẽ ngấm vào, làm Ngưu hoàng đổi màu, kém phẩm chất. Sau khi lấy Ngưu hoàng ra, phải gói kỹ để chống ẩm.
Trong Ngưu hoàng có acidcholic, cholesterol, ergosterl, acid béo, estephosphoric, bilirubin, vitamin D, muối calci, sắt, đồng… là những thứ dùng làm thuốc trấn tim mạch trong các triệu chứng điện cuồng, sốt cao, co quắp, trẻ con bị kinh phong.
Các loại này thường uống dưới dạng bột hay phối hợp với các vị thuốc khác, hoàn tán làm thành viên. Liều dùng từ 0,3 – 0,6g. Cấm dùng cho phụ nữ có thai.
Ngưu hoàng có vị đắng, tính bình, hơi có độc vào hại kinh tâm và can. Có tác dụng thanh tâm, giải độc, chữa hồi hộp, khai đờm. Dùng trong các bệnh: thần trí hôn mê, trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau, ung thư, đinh nhọt. Trong một đơn thuốc chữa bệnh viên não, người ta cũng dùng Ngưu hoàng.
NGUYỄN TIẾN BÌNH