Người bệnh bạch hầu ho, hắt hơi sẽ làm bắn ra những giọt nhỏ mang vi khuẩn. Nếu một người chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu hít phải những giọt này thì có thể mắc bệnh.
Bệnh bạch hầu là gì?
Bạch hầu là một bệnh cấp tính gây dịch do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Người mắc bệnh bạch hầu thường có tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng và có thể dẫn đến tử vong. Dù bệnh này đã có vaccine phòng bệnh, nhưng vẫn có thể có các vụ dịch xảy ra ở những khu vực có tỉ lệ tiêm chủng thấp.
Nguyên nhân nào gây bệnh bạch hầu?
Vi khuẩn C. diphtheriae gây nên bệnh bạch hầu. Khi vi khuẩn này xâm nhập vào hầu họng những người chưa có miễn dịch chống bệnh bạch hầu, chúng sẽ sinh sôi ở vùng hầu họng, tiết ra độc tố làm chết tổ chức, tạo thành các mảng màu trắng. Độc tố bạch hầu cũng có thể vào máu gây nhiễm độc toàn thân.
Bệnh bạch hầu lây lan thế nào?
Người bệnh bạch hầu ho, hắt hơi sẽ làm bắn ra những giọt nhỏ mang vi khuẩn. Nếu một người chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu hít phải những giọt này thì có thể mắc bệnh. Một số rất hiếm các trường hợp có thể lây truyền trực tiếp qua tiếp xúc.
Thường một người bệnh nếu không được điều trị có thể gây phát tán vi khuẩn trong vòng 2 tuần, thậm chí có thể đến 4 tuần. Một số ít người mang vi khuẩn mạn tính có thể phát tán mầm bệnh đến tận 6 tháng.
Những ai dễ mắc bệnh bạch hầu?
Người chưa được tiêm chủng phòng bệnh bạch hầu sẽ không có kháng thể chống bạch hầu và sẽ có nguy cơ mắc bệnh nếu hít phải vi khuẩn C. diphtheriae. Cá biệt những trường hợp dù đã tiêm chủng, nhưng sức đề kháng yếu không sinh được kháng thể, hoặc những người đã tiêm chủng quá lâu, nồng độ kháng thể trong máu giảm thấp vẫn có thể bị mắc bệnh bạch hầu.
Người bị bệnh bạch hầu biểu hiện như thế nào?
Trung bình, sau khi hít phải vi khuẩn 2-5 ngày, người bệnh sẽ phát bệnh. Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, sẽ có các biểu hiện khác nhau: Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám thầy thuốc có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amiđan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Các bệnh nhân này nếu không được điều trị tích cực có thể tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn giọng, ho ông ổng. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các mảng giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây tắc đường thở làm bệnh nhân tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu các vị trí khác: Thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
Bệnh bạch hầu nguy hiểm mức nào?
Các độc tố bạch hầu khi ngấm vào máu sẽ gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Độc tố bạch hầu có thể gây viêm cơ tim làm bệnh nhân bị suy tim cấp, hoặc loạn nhịp tim gây tử vong. Ngoài ra có thể gặp tình trạng viêm các dây thần kinh gây liệt. Nếu giả mạc hình thành tại thanh quản có thể gây tắc nghẽn đường thở và tử vong.
Tỉ lệ tử vong thông thường của người bị bệnh bạch hầu lên đến 5-10%. Ở những trẻ em dưới 5 tuổi và những người lớn tuổi, có thể tử vong tới trên 20%. Ngoài ra, người bệnh bạch hầu có thể bị các biến chứng khác như viêm tai giữa, viêm phổi do liệt cơ hoành...
Bệnh bạch hầu điều trị ra sao?
Khi có những biểu hiện nghi bạch hầu như: Sốt, đau họng, xuất hiện giả mạc trắng xám trong họng, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được khám, phát hiện bệnh bạch hầu sớm và cách ly và điều trị kịp thời tại các cơ sở y tế có đủ điều kiện.
Bệnh nhân bị bệnh bạch hầu có thể được thầy thuốc chỉ định huyết thanh kháng độc tố để trung hòa các độc tố của vi khuẩn trong máu, sử dụng kháng sinh để diệt vi khuẩn. Những bệnh nhân bị bạch hầu thanh quản sẽ được mở khí quản tạo đường thở cho bệnh nhân nếu thanh quản bị giả mạc làm bít tắc. Bệnh nhân có biến chứng tim mạch sẽ được dùng các thuốc trợ tim, chống loạn nhịp tim.
Những người lành có tiếp xúc gần với bệnh nhân có thể cần điều trị dự phòng để ngăn ngừa vi khuẩn trước khi phát bệnh
Phòng ngừa bệnh bạch hầu thế nào?
Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa được bằng biện pháp tiêm phòng. Vaccine phòng bệnh bạch hầu thường được phối hợp với vaccine phòng ho gà, uốn ván trong Chương trình tiêm chủng mở rộng. Trẻ sẽ được tiêm vào các thời điểm 2, 4 , 6 và 16-18 tháng tuổi.
Các vaccine trong Chương trình tiêm chủng mở rộng đều khá an toàn và được WHO khuyến cáo sử dụng. Tuy vậy, chúng vẫn có thể gây tác dụng phụ nhẹ như tạo sẩn và đau chỗ tiêm làm trẻ quấy khóc, một số trẻ có thể sốt. Những phản ứng nặng như sốc phản vệ hay biến chứng thần kinh cực kỳ hiếm gặp.
Người tiêm chủng rồi có nguy cơ bị bệnh bạch hầu hay không?
Sau khi được tiêm chủng đầy đủ, cơ thể sẽ sinh ra kháng thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi bệnh bạch hầu. Tuy vậy, có một số ít người sức đề kháng không tốt, sau khi tiêm phòng không tạo kháng thể đủ để bảo vệ cơ thể thì vẫn có nguy cơ bị mắc bệnh bạch hầu. Một số người tiêm phòng đã quá lâu, nồng độ kháng thể trong máu xuống thấp thì cũng có thể bị mắc bệnh bạch hầu. Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo mọi người nên đi tiêm phòng nhắc lại sau mỗi 10 năm.
Tại sao đã tổ chức tiêm chủng mở rộng mà gần đây vẫn bùng phát dịch bạch hầu?
Nếu bảo đảm tốt việc tiêm chủng và tổ chức tiêm nhắc lại thì chúng ta có thể ngăn ngừa dịch bệnh bạch hầu. Nhưng khi tỉ lệ tiêm chủng không bảo đảm thì dịch có nguy cơ bùng phát trở lại.
Thời gian qua, nhiều gia đình còn lo ngại về vaccine nên không cho trẻ đi tiêm đầy đủ, dẫn đến trong cộng đồng còn nhiều trẻ chưa có miễn dịch, có thể dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch bệnh bạch hầu ở một số địa phương.
Theo Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương