Ông Cửu Long (Phan Phương Quế), Chủ nhiệm đầu tiên của CLB thơ Diên Hồng (TP Tuy Hòa), là người làm thơ từ rất sớm. Ngay từ buổi đầu kháng chiến chống Pháp, ông đã viết nhiều bài thơ đậm nghĩa nước, tình non. Trên dặm dài công tác từ quê hương Nghệ An vào Trường Sơn và các tỉnh Trung bộ, Cửu Long luôn mang theo bên mình những cảm xúc, thi hứng. Viết về Trường Sơn, Cửu Long có những vần thơ như sau:
Núi Nhạn sông Đà - Ảnh: D.T.XUÂN |
Vượt Trường Sơn…
Qua nhiều tuần trăng tròn, trăng khuyết
Vai lưng trang bị nặng như chì…
Nhưng hồn thơ vẫn lai láng giữa cảnh rừng bát ngát cheo leo:
Rừng khuya sương trắng mịt mù
Súng ơi! Đẹp lắm tiền đồ nước non…
Và những đêm hành quân giữa rừng lặng lẽ:
Rừng đêm im tiếng động
Đêm càng khuya càng lạnh
Sương đẫm mát mồ hôi
Sao khuya càng lấp lánh
Theo ta vượt núi đồi...
Tạm biệt Trường Sơn vào buổi cuối thu bốn bề khói lửa, niềm vui rộn rã khi về lại quê hương đã tám năm xa cách:
Nhớ miền
Xa miền
Thù nước quyết trả cho xong
Cho
Để rồi bài thơ từ đầu nguồn sông Ba như một tình khúc chung riêng trọn vẹn:
Cố lên em nhé! Chớ buồn
Dẹp xong giặc nước ta luôn sum vầy!…
Khi về với Bình Thuận buổi đầu, ông có những vần thơ rực cháy:
Lửa rộn trong tim, lửa rừng rực khắp người
Lửa cách mạng sục sôi rung trời chuyển đất…
Rồi khi phải tạm ra đi, ông xót xa luyến tiếc:
Đau vì nhiệm vụ chưa tròn
Đau nghĩa nước tình non
Đau chia ly xa cách…
Đó là nỗi đau của người cách mạng. Ông về với Tuyên Quang sau thời gian chữa bệnh ở Praha - Tiệp Khắc và Trung Quốc. Thời gian này, ông ghi nhớ nỗi ân tình:
Tuyên Quang, Bình Thuận một nhà
Keo sơn kết nghĩa ruột rà thân thương
Cùng chung tâm huyết can trường
Nghĩa tình tiền tuyến hậu phương dạt dào…
Bài thơ viết ở Praha chia tay chị Henrich người Đức những ngày cùng điều trị bệnh như còn luyến lưu ánh mắt nụ cười:
Gặp nhau tưởng có gì đâu
Xa rồi mới thấy nao nao nhớ nhiều…
Và những bài thơ tình viết từ Hạ Long ở tuổi tứ tuần nhờ biển chuyển hộ, như lời tha thiết yêu thương, đến nỗi:
Biển cười sóng níu đòi xem
Gió đùa không thể viết thêm nữa rồi!…
Khi trở về Đà Lạt thì hồn thơ lại tình tứ hơn:
Đà Lạt xuân sang đẹp lạ lùng
Hồn thơ anh rộn ý riêng chung
Chan hòa nắng ấm hoa muôn sắc
Giá có em bên, đón tết cùng!…
Và thơ xuân lại đến với ông hằng năm:
Xuân ta hoa nở muôn màu
Thêm vui cuộc sống, thêm giàu ước mơ
Xuân ta rạo rực hồn thơ!…
Ông chúc thọ đồng hưu thân tình bằng những vần thơ chân thành:
Chúc xuân các cụ sống lâu
Dù cao tuổi thọ vẫn giàu tài hoa…
Bởi lạc quan vui sống nên ông như trẻ mãi:
Bảy mươi xuân nhỉ phải chăng già?
Xuân đến sao lòng thấy trẻ ra!…
Ông nhận thấy mình có trách nhiệm với đời:
Với đời đâu được phép chồn chân
Còn sức tham gia vẫn góp phần.
Những câu thơ xướng họa, ý đẹp lời hay, như phong cách thơ cũ, được thi hữu cảm mến:
Đào thắm, liễu hồng tươi tận ngõ
Mai vàng đón nắng nở đầy sân…
Tuy vậy, ông vẫn quan tâm, vẫn băn khoăn trăn trở trước những tồn tại của xã hội:
Dân lành còn lắm gieo neo
Của đâu họ sống trớ trêu thế này!…
Bây giờ, ở tuổi cận cửu tuần, nhưng ông vẫn: Tình nhà chung thuỷ luôn sâu lắng/Nghĩa nước kiên trung mãi nặng dày!…
NGUYÊN ĐÌNH