Niềm hạnh phúc của người lính là chiến thắng kẻ thù, hạnh phúc càng lớn hơn khi được tham gia trận đánh cuối cùng kết thúc chiến tranh. Tôi đã gặp được một người như thế. Ông là đại úy Trần Thanh Tùng, cựu chiến binh Sư đoàn 325, Sư đoàn 344, hiện sống ở thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh. Ông không chỉ một mà đã ba lần tham gia những trận chiến cuối cùng.
Là người dân Việt Nam không ai muốn có chiến tranh xảy ra trên đất nước mình. Nhưng khi có chiến tranh, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Ông Trần Thanh Tùng tháng 5/1975. Ảnh: Do nhân vật cung cấp |
“Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”
Đã 45 năm kể từ mùa xuân 1975, nhưng cảm xúc của ông về ngày giải phóng Sài Gòn vẫn như vẹn nguyên. Ông Tùng cho biết, ông sinh năm 1954 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh, nhập ngũ tháng 10/1972. Với 16 năm quân ngũ, trải qua ba lần tham gia giải phóng (giải phóng Sài Gòn 1975, giải phóng Campuchia 1979, giải phóng các tỉnh biên giới phía Bắc 1979), nhưng lần được tham gia giải phóng Sài Gòn là hạnh phúc, may mắn và là niềm tự hào lớn nhất đời ông.
Chống cán cuốc dưới tán cây cam trong khu rẫy của mình ở thị trấn Hai Riêng, ông Tùng hào hứng, vanh vách thuật lại: Đầu năm 1975, tôi tốt nghiệp Trường Huấn luyện Kỹ thuật của Bộ Tổng Tham mưu đóng tại Phúc Yên, Vĩnh Phú; nhận lệnh tức tốc vào Nam chiến đấu. Tôi được biên chế làm nhân viên Ban Cơ yếu, Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 (còn gọi là Binh đoàn Hương Giang). Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Sư đoàn 325 nằm trong đội hình Quân đoàn 2 tham gia chiến dịch. Với sức đột kích mạnh, cơ động cao, khả năng tác chiến hiệp đồng quân - binh chủng quy mô lớn, Quân đoàn 2 đã hành quân thần tốc với quân lệnh “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, góp phần giải phóng các tỉnh duyên hải miền Trung; kịp thời tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh trên một hướng trọng yếu.
Theo ông Tùng, tháng 3/1975, Sư đoàn 325 nhận được “Mật lệnh” tiến công về đồng bằng giải phóng Huế bằng đường 14 thay đường 12 như kế hoạch trước đó của Bộ Tổng tư lệnh. Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng bắt đầu vào ngày 5/3, với nhiều trận đánh diễn ra ác liệt giữa quân ta với quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đến trưa 25/3, quân ngụy hoàn toàn vỡ trận, Huế được giải phóng. Ngay sau khi giải phóng cố đô Huế một ngày, Sư đoàn 325 liền nhận được lệnh tấn công giải phóng Đà Nẵng. Mặc dù được lệnh “tử thủ” từ Sài Gòn nhưng quân ngụy ở Đà Nẵng không thể cản nổi bước tiến công như vũ bão của quân ta. Ngày 29/3, ta giải phóng Đà Nẵng. Sư đoàn 325 ở Đà Nẵng để củng cố lực lượng đến ngày 7/4 thì nhận được mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ”. Toàn Sư đoàn 325 nhanh chóng lên đường tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Đoàn quân lần lượt đi qua các tỉnh, thành phố ven biển miền Trung gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Ninh Thuận lúc này đã được giải phóng trong niềm vui bất tận của đồng bào ta. Đường đến Sài Gòn đã rất gần.
Cuối tháng 4/1975, Sư đoàn 325 tham gia chiến đấu chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc - “phòng tuyến bất khả xâm phạm” của Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 23/4, Sư đoàn 325 nhận lệnh tiêu diệt địch vùng tả ngạn sông Đồng Nai, Long Thành, Nhơn Trạch, ngăn chặn địch rút quân về Cát Lái, tiến quân vào nội đô từ hướng đông nam Sài Gòn, và sẽ cùng hợp quân ở dinh Độc Lập.
Chiều tối 26/4, Sư đoàn 325 được lệnh bắt đầu nổ súng thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Pháo cối của ta từ các cứ điểm quanh Sài Gòn thi nhau nhả đạn; chừng 1 giờ sau, khói đạn đang mù mịt, xe tăng ta lao lên dẫn bộ binh xung phong. “Khi đó, tôi may mắn được cơ động bằng xe cùng với Tư lệnh Sư đoàn Phạm Minh Tâm và Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương. Trên xe, chúng tôi nhìn rõ từng đoàn quân giải phóng dũng mãnh, ào ạt tiến công về hướng Sài Gòn - Gia Định. Bộ đội lúc đó được phát một người một lá cờ Tổ quốc, lòng rạo rực niềm vui khôn xiết, mọi người đứng dậy cả lên, phất cao cờ mặc cho tiếng súng đạn, khói bom mù mịt. Trưa 30/4, thời điểm Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Sở chỉ huy Sư đoàn 325 đang có mặt ở Cát Lái, bộ đội ta vỡ òa, ôm nhau gào lên, cười, khóc vì quá đỗi hạnh phúc, sung sướng”, ông Tùng nhớ lại.
Các đơn vị ta phối hợp với các ban quân quản ở địa phương làm chủ thành phố; khoảng một tuần thì ổn định tình hình, bàn giao nhiệm vụ, các vị trí cho quân quản, dân quân du kích quản lý. Sư đoàn 325 được lệnh rút ra khu vực Tổng kho Long Bình, Cổng số 10, Tam Hiệp. Đến tháng 10/1975, Sư đoàn được điều ra Cam Lộ, Quảng Trị theo lệnh của trên… “Những giây phút giải phóng Sài Gòn ngày đó mãi mãi là niềm tự hào, tạo nên cảm xúc phấn chấn hết sức lạ thường mỗi khi tôi nhớ lại”, ông Tùng chia sẻ thêm.
Ông Trần Thanh Tùng bên vườn trái cây của gia đình tại thị trấn Hai Riêng. Ảnh: BÁ THUYẾT |
Giải phóng Campuchia; tham gia trận chiến cuối bảo vệ biên giới phía Bắc
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, những tưởng quân và dân ta sẽ kết thúc những ngày chiến tranh khói lửa, tập trung vào nhiệm vụ khôi phục, phát triển đất nước. Thế nhưng, kẻ thù vẫn hăm he, quấy nhiễu xâm lược đất nước ta từ bên kia biên giới.
Tháng 11/1976, Trần Thanh Tùng tiếp tục theo Sư đoàn 325 sang giúp nước bạn Lào diệt phỉ, xây dựng chính quyền tại tỉnh Savanakhet. Tháng 10/1978, Sư đoàn 325 được lệnh về Cam Lộ củng cố lực lượng. Tháng 12/1978, sư đoàn hành quân vào Bảy Núi, Tri Tôn, An Giang. Ngày 1/1/1979, sư đoàn lên Tịnh Biên, vượt kênh Vĩnh Tế, tiến công tiêu diệt tập đoàn diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary; tham gia giải phóng nước bạn Campuchia ngày 7/1/1979. Tháng 3/1979, Sư đoàn 325 trong đội hình Quân đoàn 2 lại được lệnh cấp tốc ra đánh giặc xâm lược các tỉnh biên giới phía Bắc. Từ Campuchia, bộ đội ta được máy bay chuyển ra sân bay Gia Lâm, rồi về tập kết tại tỉnh Bắc Kạn. Sư đoàn tham gia giải phóng TX Cao Bằng cùng thời điểm Trung Quốc có lệnh rút lui. Sau đó, Sư đoàn 325 về đóng quân tại thị trấn Chủ, bên bờ sông Lục Ngạn tiếp tục nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tháng 10/1979, ông Tùng được cho đi học sĩ quan cơ yếu, ra trường công tác tại Sư đoàn 344, Binh đoàn 12.
Đến năm 1988, ông Trần Thanh Tùng được nghỉ chế độ mất sức 65%, cấp hàm đại úy, Trưởng Ban Cơ yếu Sư đoàn 344, với nhiều huân, huy chương và phần thưởng cao quý.
Về quê, phát huy phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, không chấp nhận cuộc sống nghèo khó, ông đưa vợ con vào Sông Hinh, tiếp tục lao động làm kinh tế. Tham gia công tác địa phương làm Phó Bí thư, Bí thư Chi bộ thôn 3, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị trấn Hai Riêng (2007-2012). Nay tuy tuổi đã già, ông vẫn cùng vợ là bà Kiều Thị Lương tham gia làm rẫy, chăn nuôi, sống bình dị, vui vẻ bên con cháu. Nhờ chăm chỉ lao động, gia đình ông Tùng có kinh tế ổn định, luôn tiên phong trong mọi phong trào của địa phương. |
NGUYỄN BÁ THUYẾT