PHẦN THỨ NHẤT
Tình hình thực hiện kế hoạch KTXH, ANQP năm 2007
Đồng chí Trần Thị Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh trình bày báo cáo - Ảnh: N.Lưu
Trong năm 2007, tuy gặp nhiều khó khăn như: thời tiết nắng nóng kéo dài, ảnh hưởng nặng nề của bão lụt, dịch bệnh; giá cả một số mặt hàng thiết yếu tăng…; tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Chính phủ và Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo tận dụng những thuận lợi, cơ hội, khắc phục khó khăn, ổn định và phát triển khá toàn diện các lĩnh vực kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng. Có 08/09 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch HĐND tỉnh giao.
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu như sau:
- Tốc độ tăng GDP là 13,3% (KH là 12,5 – 13%).
Trong đó: Nông – lâm – thủy sản tăng 4,5% (KH là 3 – 3,5%), Công nghiệp – xây dựng tăng 19,1% (KH là 18 – 19%), Dịch vụ tăng 14,5% (KH là 13 – 13,5%)
- Sản lượng lương thực có hạt 337.158 tấn (KH là 300.000 tấn)
- Tổng kim ngạch xuất khẩu XK 72,1 triệu USD (KH là 80 triệu USD)
- Tổng vốn đầu tư phát triển 3.902,7 tỉ đồng (KH là 3.400 – 3.600 tỉ đồng).
- Thu ngân sách trên địa bàn 750 tỉ đồng (KH là 690 tỉ đồng).
- Giải quyết việc làm 25.350 lao động (KH là 25.000 lao động).
- Mức giảm sinh 0,5%0 (KH là 0,5%0)
- Mức giảm TE suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi là 2% (KH là 2 – 2,2%)
- Giảm tỉ lệ hộ nghèo 2,1% (KH là 2 – 2,5%).
Cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
1. Nền kinh tế tỉnh ổn định và có nhiều mặt phát triển khá. Đây là năm thứ 6 liên tiếp giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tăng trên 10% và là năm đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, là năm đầu tiên khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm tỉ trọng cao hơn khu vực nông – lâm – thủy sản trong cơ cấu GDP. Giá trị công nghiệp – xây dựng chiếm 32,3% trong cơ cấu GDP (năm 2006 là 30,7%), nông – lâm – thủy sản chiếm 32,1% (năm 2006 là 34,6%), dịch vụ chiếm 35,6% (năm 2006 là 34,7%). Phú Yên có chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đạt khá, được xếp thứ 23/64 tỉnh, thành phố cả nước. Là năm tỉnh thu hút được nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài với quy mô lớn, trong đó có dự án lên đến trên chục tỉ USD. Lần đầu tiên thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng 25,5% so năm trước.
- Sản xuất nông – lâm – thủy sản tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh, nhưng vẫn vươn lên phát triển ổn định. Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá cố định 1994) là 1.416,4 tỉ đồng, đạt 103,5% kế hoạch, tăng 5,5% so năm trước. Tiếp tục có bước chuyển đổi về cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực. Lúa vụ đông xuân được mùa, NSBQ 64,9 tạ/ha, cao nhất từ trước đến nay. Nhờ chủ động, quyết liệt trong phòng ngừa, kịp thời phát hiện và tập trung điều trị dịch bệnh nên đàn gia súc, gia cầm tiếp tục tăng. Đã kiểm soát được bệnh LMLM ở gia súc; không để xảy ra hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở đàn heo (heo tai xanh) và nhiều năm liền không xảy ra dịch cúm gia cầm. Kinh tế lâm nghiệp phát triển gắn với quản lý bảo vệ rừng. Hoàn thành rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng. Số vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng giảm so cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất thủy sản (giá cố định 1994) là 681,7 tỉ đồng, đạt 95,1% kế hoạch, tăng 1,5% so năm trước. Tổng sản lượng khai thác 36.391 tấn, đạt 110,3% kế hoạch, tăng 2,3% so năm trước. Quy mô tàu thuyền được nâng lên, trong đó tàu thuyền khai thác xa bờ 919 chiếc. Cơ cấu nuôi trồng thủy sản đa dạng hơn. Đặc biệt chú trọng sản xuất, kiểm dịch giống đảm bảo sạch bệnh phục vụ nuôi trồng. Sản lượng thu hoạch 3.875 tấn, đạt 96,9% kế hoạch, tăng 8,1% so năm trước. Tuy nhiên, nuôi tôm hùm lồng gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng thời tiết, thủy triều đỏ và dịch bệnh đã làm chết 352.072 con tôm thịt, thiệt hại lớn về kinh tế.
- Công tác phòng chống thiên tai được chú trọng. Chủ động, tích cực triển khai các giải pháp phòng tránh và giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Thực hiện tốt công tác phòng chống hạn, khắc phục được tình trạng hạn cục bộ. Tuy có sự chủ động phòng tránh, nhưng mưa, bão diễn biến phức tạp đã gây thiệt hại rất nặng về sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh, tổng thiệt hại cả 3 đợt mưa lũ ước tính trên 250 tỉ đồng.
Đặc biệt trong đợt mưa lũ trên diện rộng toàn tỉnh vào đầu tháng 11/2007 đã gây thiệt hại nặng nề, làm 21 người chết, 9 người bị thương; sập hoàn toàn 144 nhà dân, hư hỏng nặng 409 nhà. Nhiều công trình thủy lợi, giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc, trường học, cơ sở y tế… bị ngập nước, sạt lở, hư hỏng nặng. Trên tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc –
Toàn tỉnh đã tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ, khôi phục sản xuất, cứu trợ cho dân, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Hỗ trợ ngay cho gia đình có người chết 3 triệu đồng/người, bị thương nặng 1 triệu đồng/người, nhà sập hoàn toàn 5 triệu đồng/hộ. Cứu tế kịp thời và tổ chức tiếp nhận, phân bổ 800 tấn gạo từ nguồn hỗ trợ của Chính phủ và 500 tấn mì ăn liền đến tận tay người dân, không để người nào bị đói. Sửa chữa những đoạn đường bị sạt lở gây ách tắc; khôi phục hệ thống điện, thông tin liên lạc; kiểm tra, hướng dẫn xử lý nước, vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh sau lũ… Tuy nhiên, hậu quả thiệt hại do lũ lụt gây ra là rất lớn, sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân trong tỉnh; cần tập trung huy động mọi nguồn lực và nỗ lực của tất cả các ngành, các cấp trong tỉnh để khắc phục hậu quả.
- Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất CN-TTCN (giá cố định 1994) 3.025,7 tỉ đồng, đạt 102,1% kế hoạch, tăng 20,5% so năm trước. Có thêm 7 dự án công nghiệp đã hoàn thành đi vào hoạt động và một số doanh nghiệp đầu tư mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ. Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng các KCN, cụm điểm công nghiệp. Trong năm thu hút thêm 13 dự án đầu tư mới, nâng tổng số đầu tư vào các KCN là 67 dự án, với tổng vốn đăng ký 4.140,9 tỉ đồng và 25,1 triệu USD. Số lao động làm việc tại các KCN là 7.014 người, trong đó lao động địa phương chiếm 96%. Doanh thu các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ước đạt 1.700 tỉ đồng, nộp ngân sách 70 tỉ đồng. Tập trung đôn đốc tiến độ các dự án điện.
- Các loại hình dịch vụ mở rộng và chất lượng nâng cao hơn, cơ bản đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống. Dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông phát triển nhanh và có hiệu quả. Nhu cầu vận chuyển bằng đường hàng không đang tăng, nhất là khi một số dự án lớn vào cuộc. Cảng Vũng Rô được khai thác tốt. Dịch vụ du lịch có bước phát triển mới. Hoạt động thương mại phát triển. Kim ngạch xuất khẩu tuy tăng so năm trước, nhưng không đạt kế hoạch đề ra, chủ yếu là do xuất khẩu tinh bột sắn, hàng thủy sản đạt thấp. Huy động vốn của các chi nhánh ngân hàng tiếp tục tăng 26% so đầu năm.
- Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được tăng cường. Việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện chặt chẽ hơn. Đến nay tỉ lệ cấp giấy CNQSDĐ nông nghiệp, lâm nghiệp đạt khá cao, các loại đất còn lại tỉ lệ cấp giấy CNQSDĐ còn thấp, nhất là đất ở. Công tác bảo vệ tài nguyên, khoáng sản được chú trọng. Tăng cường hoạt động truyền thông về môi trường.
- Công tác đầu tư phát triển chuyển biến tích cực. Xúc tiến đầu tư đạt kết quả nổi bật, thu hút được nhiều dự án có vốn đầu tư lớn vào địa bàn tỉnh. Đã tổ chức thành công Hội nghị xúc tiến đầu tư tại Singapore thu hút trên 150 doanh nghiệp tham gia và có 22 nhà đầu tư nước ngoài đến Phú Yên tìm hiểu cơ hội đầu tư. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào tỉnh năm 2007 gần 13 tỉ USD. Đặc biệt lần đầu tiên tỉnh thu hút được 2 dự án đầu tư nước ngoài có tổng vốn đầu tư hàng tỉ USD là: dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hóa dầu và Tổ hợp hóa dầu Naphtha Cracking Hòa Tâm với tổng mức đầu tư 11 tỉ USD do Công ty SP Chemical (Singapore) làm chủ đầu tư và Dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô tổng mức đầu tư 1,7 tỉ USD, do liên doanh Công ty Technostar Management Ltd (Vương quốc Anh) – Công ty dầu khí Telloil (Cộng hòa Liên bang Nga) làm chủ đầu tư và đã công bố chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ. Đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 6 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng tổng số lên 24 dự án, trong đó có dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô.
Ngoài ra, tỉnh còn ký thỏa thuận khung dự án khu kinh tế liên hợp
- Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng được tăng cường. Đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, đưa công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này đi dần vào nề nếp. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được chú trọng. Tiếp tục huy động nhiều nguồn lực để đầu tư phát triển. Có nhiều cố gắng trong xử lý nợ đọng XDCB và đảm bảo giải ngân vốn cho những công trình đã được ghi kế hoạch. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 3.902,7 tỉ đồng, đạt 108,4% kế hoạch, tăng 20,4% so năm trước. Có thêm một số công trình hạ tầng và dự án sản xuất đi vào hoạt động, tạo cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế của tỉnh, với tổng giá trị tài sản cố định mới tăng 1.845,6 tỉ đồng, tăng 7,2% so năm trước. Tuy tập trung chỉ đạo nhưng tiến độ một số công trình vẫn còn chậm.
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá cao so năm trước, chi ngân sách đảm bảo thực hiện đúng theo dự toán và định mức. Tổng thu ngân sách ước 750 tỉ đồng, đạt 108,7% dự toán tỉnh và 140,4% dự toán Trung ương, tăng 25,5% so năm trước; đây là mức thu đạt cao nhất so nhiều năm trước đây. Tổng chi ngân sách ước 1.498,5 tỉ đồng, đạt 90,7% dự toán tỉnh và 112,8% dự toán Trung ương giao. Chi xây dựng cơ bản đạt thấp, dự ước giải ngân chỉ đạt 69,5% dự toán, do một số công trình, dự án triển khai chậm.
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Hoàn thành cổ phần hóa 1 DNNN và chuyển đổi 3 DNNN sang Cty TNHH một thành viên. Hầu hết DNNN sau sắp xếp ổn định và phát triển, nâng cao được năng lực cạnh tranh. Có thêm 196 doanh nghiệp tư nhân được thành lập, tăng thêm nguồn lực của xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tiếp tục củng cố, đổi mới kinh tế tập thể. Thành lập mới 3 hợp tác xã, nâng tổng số lên 207 hợp tác xã, trong đó có 65 HTX làm ăn có hiệu quả.
2. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ hơn. Quy mô trường lớp được mở rộng, chất lượng giáo dục được nâng cao. Đẩy mạnh cải tiến phương pháp dạy và học. Cuộc vận động “chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đạt được kết quả bước đầu, được xã hội đồng tình ủng hộ. Xã hội hóa giáo dục được mở rộng. Đã huy động nhiều nguồn vốn tài trợ và vốn trong dân để tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giáo dục. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Y tế dự phòng thực hiện khá tốt, không để xảy ra dịch sốt xuất huyết, sốt rét trên địa bàn. Các chỉ tiêu về giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi, giảm sinh đều đạt kế hoạch đề ra. Không xảy ra tử vong do ngộ độc thực phẩm. Giải quyết việc làm, giảm nghèo được thực hiện tốt; không để bất kỳ người dân nào bị đói. Tỉ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề được nâng lên. Tiếp tục có sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động. Đặc biệt quan tâm chăm lo, thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ cho đối tượng chính sách. Tiếp tục hỗ trợ xây dựng 1.041 nhà ở cho hộ nghèo, đạt 52% kế hoạch năm; trong đó vận động cộng đồng và tự lực của hộ nghèo trên 7,7 tỉ đồng. Hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao được mở rộng và chất lượng ngày càng nâng cao, đảm bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
3. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; quốc phòng được củng cố và tăng cường. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Tổ chức thành công diễn tập vận hành theo cơ chế 02 của Bộ Chính trị ở huyện Phú Hòa, huyện Sông Hinh, 29 xã, phường, thị trấn và diễn tập chỉ huy cơ quan đạt 100% kế hoạch. Giao quân năm 2007 đạt 100% chỉ tiêu. Chú trọng huấn luyện quân sự, bồi dưỡng giáo dục kiến thức quốc phòng cho các đối tượng. Tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông theo Nghị quyết 32 của Chính phủ. Tuy nhiên tai nạn giao thông vẫn còn ở mức cao; toàn tỉnh xảy ra 168 vụ (giảm 2 vụ so cùng kỳ năm trước); làm chết 170 người (tăng 15 người), bị thương 151 người (tăng 3 người).
4. Chính quyền các cấp được củng cố và kiện toàn, hoạt động có hiệu quả hơn. Tập trung xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện các chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và một số chương trình khác. Tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII tỉnh Phú Yên. Công tác biên chế, tiền lương, tổ chức cán bộ được thực hiện chặt chẽ. Chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ CBCC. Công tác địa giới hành chính thực hiện tốt. Đã thực hiện xong phương án lập bổ sung chỉnh sửa hồ sơ địa giới hành chính tỉnh Phú Yên báo cáo hội đồng nghiệm thu Trung ương. Đã hoàn thành phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn và đã quyết định công nhận xã, phường, thị trấn loại 1 là 51, loại 2 là 47, loại 3 là 08. Triển khai phân loại đơn vị hành chính cấp huyện, tỉnh theo Nghị định 15 ngày 26/1/2007 của Chính phủ, trình HĐND cùng cấp thông qua, báo cáo Bộ Nội vụ, Chính phủ quyết định.
Công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh có sự đổi mới theo hướng tăng cường kiểm tra, xử lý vướng mắc tại cơ sở, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngoài các nhiệm vụ đã được xác định trong kế hoạch, năm 2007 phát sinh thêm một số nhiệm vụ quan trọng khác, đặc biệt là trong công tác xúc tiến đầu tư với nhiều dự án có vốn đầu tư lớn của nước ngoài vào cuộc, UBND tỉnh đã có sự linh động trong điều hành để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới.
Việc tiếp nhận, xử lý, ban hành văn bản và xử lý công việc thường xuyên của Chủ tịch, các Phó chủ tịch UBND tỉnh ngày càng đi vào nề nếp. Quy chế làm việc của UBND tỉnh được tổ chức thực hiện khá tốt. Đến nay hệ thống văn bản quy định về trình tự thủ tục hành chính của tỉnh khá đầy đủ, được niêm yết công khai. Cơ chế “một cửa” được thực hiện ở tất cả cơ quan hành chính Nhà nước. Đang xây dựng quy định thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trên một số lĩnh vực như: thành lập doanh nghiệp, cấp chứng nhận đầu tư… Bố trí cán bộ trực vào ngày thứ bảy ở một số cơ quan chức năng để tiếp nhận, giải quyết kịp thời các công việc cho tổ chức, doanh nghiệp, công dân. Đặc biệt cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực như: đăng ký kinh doanh, công chứng, chứng thực, hộ tịch hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, phương tiện giao thông… có chuyển biến đáng kể theo hướng đơn giản về mặt thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm phiền hà; được công dân, tổ chức, doanh nghiệp ghi nhận. Các cơ quan, đơn vị trong tỉnh đều xây dựng, ban hành Quy chế làm việc, Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan, triển khai thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ công chức, viên chức. Tiếp tục triển khai xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 ở 9 đơn vị.
5. Công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt, triển khai Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của cán bộ, công chức viên chức và nhân dân. Trên cơ sở chương trình hành động của UBND tỉnh về chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, các sở, ban, ngành, địa phương có kế hoạch cụ thể triển khai. Tiếp tục giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính cho 45 cơ quan; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho 99 đơn vị sự nghiệp có thu. Nhiều cơ quan, đơn vị xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để quản lý chặt chẽ chi tiêu. Việc tổ chức hội họp, tiếp khách, tổng kết, kỷ niệm ngày truyền thống đều được thực hiện với tinh thần tiết kiệm, không liên hoan tiệc tùng lãng phí. Quản lý, sử dụng ôtô con đúng quy định. Quản lý, bố trí trụ sở làm việc, nhà công vụ hợp lý, đúng chế độ. Các vụ việc liên quan đến tiêu cực, tham nhũng đều được chỉ đạo đưa ra xử lý nghiêm minh.
6. Công tác tư pháp, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại – tố cáo… đều có sự tập trung chỉ đạo khá sâu sát. Thi hành án dân sự chuyển biến tích cực, tỉ lệ thi hành án có điều kiện đạt trên 74%. Duy trì tốt tiếp công dân và tập trung giải quyết khiếu nại tố cáo từ cơ sở, không để xảy ra điểm nóng về khiếu kiện.
Các đồng chí lão thành cách mạng tham dự kỳ họp
Có thể nói năm 2007 là năm tỉnh ta đạt được thành tựu khá nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng. Nền kinh tế của tỉnh ổn định và phát triển theo hướng bền vững. Công tác xúc tiến đầu tư có chuyển biến tích cực, thu hút được nhiều dự án có vốn đầu tư lớn của nước ngoài. Huy động vốn cho đầu tư tăng đáng kể. Sản xuất nông – lâm thủy sản khắc phục khó khăn tiếp tục phát triển khá. Công nghiệp giữ mức tăng trưởng cao. Các ngành dịch vụ ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng. Thu ngân sách đạt khá. Cùng với tăng trưởng kinh tế, đã góp phần giải quyết tốt hơn các vấn đề về văn hóa – xã hội. Đời sống nhân dân trên địa bàn được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, không có hộ đói, giảm hộ nghèo. Hoạt động của chính quyền các cấp tiếp tục được đổi mới, chỉ đạo, điều hành có hiệu quả hơn. Cải cách hành chính có nhiều cố gắng và đạt được kết quả đáng ghi nhận. Công tác phòng chống tội phạm thực hiện tốt. An ninh chính trị được giữ vững, quốc phòng được củng cố.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chỉ đạo điều hành năm 2007 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; trong đó có những vấn đề tồn tại nhiều năm, nhưng việc khắc phục chưa có chuyển biến rõ nét (được phân tích rõ trong báo cáo chi tiết). Ở đây chỉ nêu 4 vấn đề tồn tại lớn, đó là:
- Về kinh tế: Sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp. Cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu lao động chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tuy tăng khá cao so năm trước, nhưng chưa có nguồn thu lớn và bền vững. Giải ngân vốn xây dựng cơ bản đạt thấp. Kim ngạch xuất khẩu tuy tăng so năm trước nhưng không đạt kế hoạch đề ra.
Công tác đầu tư phát triển mạnh nhưng còn nhiều bất cập. Xúc tiến đầu tư đạt tốt, nhưng một số dự án đầu tư đăng ký chậm triển khai hoặc không triển khai. Nhiều công trình, dự án chậm tiến độ. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư kéo dài.
- Về văn hóa – xã hội: Triển khai xã hội hóa theo Nghị quyết 05 của Chính phủ thực hiện còn chậm. Phổ cập THCS không hoàn thành theo kế hoạch của UBND tỉnh. Số học sinh bỏ học giữa chừng tăng mà chủ yếu là con em của những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp không nhiều nhưng vẫn còn. Đào tạo nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu kể cả số lượng và chất lượng. Mức giảm sinh chưa vững chắc, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng.
- Về đảm bảo an toàn giao thông: Tai nạn giao thông tuy có nhiều cố gắng nhưng chưa được kiềm chế. Tai nạn giao thông đường bộ có giảm về số vụ, nhưng tăng số người chết và bị thương so cùng kỳ năm trước. Tai nạn giao thông đường sắt tăng đột biến, cả số vụ, số người chết và bị thương.
- Công tác cải cách hành chính có tiến bộ hơn, nhưng chưa thực sự tạo được bước đột phá như mục tiêu đề ra. Quy định về thủ tục hành chính khá đầy đủ, nhưng việc triển khai thực hiện ở một số khâu chưa đồng bộ, hiệu quả mang lại chưa cao. Thái độ phục vụ nhân dân của một số cán bộ công chức tuy được chấn chỉnh, song chưa thực sự chuyển biến rõ rệt.
Những tồn tại yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, ngoài các nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do: Việc triển khai các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật kịp thời nhưng tổ chức thực hiện ở một số địa phương, sở, ban, ngành còn chậm, hiệu quả thấp. Lề lối làm việc chậm cải tiến, đổi mới.
*
* *
PHẦN THỨ HAI
Nhiệm vụ kế hoạch và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2008
Bước vào kế hoạch năm 2008, nước ta nói chung và tỉnh ta nói riêng có những thuận lợi cơ bản là: Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng; đây vừa là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với quá trình phát triển. Nền kinh tế tỉnh liên tục có bước tăng trưởng khá cao, theo hướng bền vững, tạo đà vững chắc cho phát triển những năm tiếp theo và tạo điều kiện giải quyết tốt hơn các vấn đề về xã hội. Một số dự án đầu tư lớn đã, đang và chuẩn bị triển khai trên địa bàn tỉnh sẽ tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội tỉnh khi hoàn thành đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng sẽ gặp phải không ít khó khăn, thử thách do các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế tỉnh còn hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Vốn đầu tư phát triển không đáp ứng được yêu cầu đầu tư. Biến động của giá cả thị trường, dịch bệnh, ảnh hưởng thiên tai… vẫn luôn là những nguy cơ tiềm ẩn tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức nhìn chung còn thiếu tính chuyên nghiệp. Lao động phổ thông khá dồi dào, nhưng lại thiếu lao động trình độ kỹ thuật cao, trình độ quản lý giỏi, nên yếu tố nhân lực đã và sẽ là một trong những thách thức lớn cho công cuộc phát triển sắp đến.
Trong năm 2008, UBND tỉnh xác định mục tiêu phát triển là: Tập trung khai thác tốt các nguồn lực để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, gắn với bảo vệ môi trường hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, để chủ động hội nhập quốc tế. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động. Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Quan tâm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. Củng cố và giữ vững an ninh – quốc phòng. Kiềm chế và giảm dần tai nạn giao thông. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục củng cố kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Cải cách hành chính mạnh mẽ và có bước đột phá trong năm 2008.
Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2008 như sau:
* Chỉ tiêu về kinh tế:
- Tốc độ tăng GDP: 14,5% (phấn đấu 15%)
Trong đó: Nông – lâm – thủy sản tăng 3,7%, Công nghiệp – Xây dựng tăng 21,1%, Dịch vụ tăng 15,4%
- Sản lượng lương thực có hạt 320.000 tấn
- Tổng kim ngạch xuất khẩu 80 triệu USD
- Thu ngân sách trên địa bàn 870 tỉ đồng
- Tổng vốn đầu tư phát triển 4.850 tỉ đồng (phấn đấu 5.000 tỉ đồng).
* Chỉ tiêu về xã hội:
- Mức giảm sinh 0,5%0
- Mức giảm trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi 2%
- Giải quyết việc làm 25.500 lao động
- Giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 2 – 2,5%
* Chỉ tiêu về môi trường:
- Tỉ lệ độ che phủ rừng 38,3%
- Tỉ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch 85%
- Tỉ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch 52%
Để thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra, hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm 2008, tỉnh sẽ tập trung cho một số công tác trọng tâm sau đây:
1. Tập trung sức khắc phục hậu quả do lũ lụt năm 2007, khôi phục và ổn định sản xuất, đời sống. Nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.
- Tiếp tục thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu nông – lâm – thủy sản và nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Phát huy lợi thế của từng vùng để hình thành các vùng chuyên canh tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong bảo quản và chế biến sản phẩm, hướng mạnh đến xuất khẩu. Đặc biệt chú ý vấn đề an ninh lương thực. Nhân rộng mô hình cánh đồng 50 triệu đồng/ha. Phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, hiệu quả, an toàn dịch bệnh. Thực hiện tốt phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm. Ngăn chặn bệnh LMLM ở gia súc tái phát; giữ vững địa bàn không có dịch cúm gia cầm và bệnh heo tai xanh. Tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, góp phần tăng độ che phủ rừng. Tiến hành rà soát, hiệu chỉnh quy hoạch khai thác thủy sản, bố trí từng loại tàu cá phù hợp với tuyến khai thác. Phát triển khai thác xa bờ hợp lý, sản xuất đi đôi với dịch vụ hậu cần trên biển. Chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thủy sản, đa dạng hóa đối tượng nuôi, hình thức nuôi, gắn với phát triển thủy lợi, xử lý môi trường, đảm bảo nguồn giống sạch bệnh phục vụ sản xuất. Xây dựng kế hoạch và triển khai công tác phòng chống thiên tai năm 2008 ngay từ đầu năm.
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích thu hút các dự án đầu tư mới vào lĩnh vực công nghiệp. Duy trì và không ngừng cải tiến mẫu mã, chất lượng các mặt hàng truyền thống có lợi thế cạnh tranh. Đẩy mạnh các hoạt động khuyến công. Xây dựng các cụm ngành nghề ở khu nông thôn theo hướng sản xuất tập trung, giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường. Tranh thủ nhiều nguồn lực để tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và thực hiện tốt cơ chế chính sách để thu hút đầu tư.
- Chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo bước phát triển mạnh mẽ khu vực dịch vụ, phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế khác. Triển khai lộ trình thực hiện cam kết gia nhập WTO. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu và hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia các hoạt động tìm kiếm, mở rộng thị trường. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường. Tập trung nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, phát triển thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đẩy mạnh công tác quảng bá thu hút vốn đầu tư các dự án du lịch có quy mô hiện đại. Duy trì và xây dựng các thương hiệu mạnh trong dịch vụ vận tải. Phát triển vận tải công cộng. Tiếp tục làm việc ngành hàng không thúc đẩy tăng thêm tuyến bay, tần suất bay đến và đi sân bay Tuy Hòa. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ; bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm; phát triển các dịch vụ mới trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, giáo dục và đào tạo, các dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản…
- Gắn mục tiêu phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên môi trường, để đảm bảo phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ môi trường ngay từ khi xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự án đầu tư. Tập trung giải quyết những vấn đề còn bất cập trong quản lý tài nguyên môi trường. Đẩy nhanh tiến độ và cơ bản hoàn thành cấp giấy CNQSDĐ. Tiếp tục có hỗ trợ thích hợp cho người dân ở những nơi Nhà nước thu hồi đất, thực hiện tốt tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề, ổn định cuộc sống lâu dài. Tăng cường vận động, tuyên truyền về bảo vệ môi trường và xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất, tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
- Tiếp tục tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút mạnh mẽ đầu tư vào tỉnh, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các giải pháp để đẩy mạnh việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI), với cơ chế chính sách ưu đãi, thủ tục đơn giản. Tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy các dự án quan trọng có tác dụng làm đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong thời gian đến như: các dự án hóa, lọc dầu, khu du lịch liên hợp cao cấp… Triển khai tốt các công việc thuộc trách nhiệm của tỉnh thực hiện các bước tiếp theo của Dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô để khởi công quý IV/2008; Dự án hạ tầng KCN hóa dầu Hòa Tâm và Tổ hợp hóa dầu Naphtha Cracking để khởi công vào đầu năm 2009. cố gắng thu hút dự án khu kinh tế Du Bai tại Phú Yên và xúc tiến thủ tục đầu tư các dự án khác đã ký biên bản ghi nhớ.
Chú trọng công tác quy hoạch, rà soát, điều chỉnh quy hoạch, đảm bảo tính khả thi. Hoàn chỉnh các quy hoạch lớn như: quy hoạch vùng tỉnh Phú Yên đến năm 2025; quy hoạch chung khu kinh tế Nam Phú Yên. Quản lý chặt chẽ các quy hoạch. Tăng cường quản lý chất lượng công trình xây dựng, quản lý trật tự xây dựng đô thị. Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và công trình xây dựng.
Huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Chuẩn bị thật tốt để thành lập khu kinh tế Nam Phú Yên trước năm 2010 và hoàn thiện chính sách ưu đãi khuyến khích thu hút đầu tư vào khu kinh tế này. Ngoài nguồn vốn Nhà nước thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Nam TP Tuy Hòa. Bố trí vốn trả nợ các khoản vay đầu tư đến hạn và tập trung đầu tư dứt điểm các công trình chuyển tiếp, không để tình trạng thiếu vốn, hoặc tồn đọng vốn XDCB. Đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn thực hiện vận động nhiều hình thức đầu tư như: xây dựng – khai thác – chuyển giao (BOT), xây dựng – chuyển giao (BT), xây dựng – chuyển giao – khai thác (BTO)… Sử dụng toàn bộ nguồn thu xổ số kiến thiết đầu tư xây dựng các công trình y tế, giáo dục.
Chú trọng tất cả các khâu từ lựa chọn tư vấn thiết kế, giám sát, nhà thầu thi công, kiểm tra, giám sát chất lượng công trình…, đảm bảo công trình thi công đúng tiến độ và chất lượng. Triển khai đầu tư 04 dự án quan trọng mới là: Trường Đại học Phú Yên, khu kinh tế Nam Phú Yên, khu trung tâm hành chính và khu dân cư Hòa Tâm mới, hồ Suối Vực. Khởi công kè bờ Nam TP Tuy Hòa, cầu An Hải, dự án nhà bảo tàng tỉnh… Tập trung chỉ đạo quyết liệt các công trình quan trọng của tỉnh. Hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình lớn như: kè Bạch Đằng, cảng Vũng Rô (giai đoạn 2), cầu Sông Ba và một số cầu nhỏ trên trục dọc miền Tây, đường cơ động An Phú – An Hải… triển khai tốt các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh. Phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ một số công trình lớn của Trung ương như: thủy điện sông Ba hạ, thủy điện Krông Năng… Tích cực làm việc với các Bộ ngành Trung ương thúc đẩy đầu tư các dự án lớn có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh gắn với phát triển kinh tế vùng.
- Chỉ đạo quyết liệt trong thu ngân sách, chống thất thu, kiên quyết thu hồi nợ đọng thuế; đảm bảo các yêu cầu chi đã được bố trí. Tiếp tục đơn giản hóa và công khai minh bạch các thủ tục nộp ngân sách Nhà nước; mở rộng cơ chế tự khai, tự nộp thuế cho các doanh nghiệp. Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là một số doanh nghiệp hàng năm có đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh. Tập trung nguồn lực thực hiện cải cách tiền lương. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc chi tiêu ngân sách, quản lý tài sản công.
- Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế. Xây dựng cơ chế chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng đưa lại nguồn thu lớn cho ngân sách, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, tăng nguồn thu cho ngân sách các năm sau. Triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 22/2007/CT-TTg ngày 26/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế dân doanh. Sớm hoàn thiện đề án phân loại, thực hiện sắp xếp các công ty Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ. Chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể theo Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX.
Khai thác cá ngừ đại dương xuất khẩu - Ảnh: N.Lưu |
2. Xã hội hóa mạnh mẽ và nâng cao chất lượng hoạt động các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao; đảm bảo phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt hơn các vấn đề về xã hội. Triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, biến nguồn nhân lực thành yếu tố cạnh tranh để thu hút đầu tư. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới, nhất là khi các dự án lớn về lọc hóa dầu, thương mại, du lịch đang và hcuẩn bị triển khai trên địa bàn tỉnh. Quan tâm chăm lo phát triển giáo dục mầm non. Hoàn thành phổ cập giáo dục THCS, triển khai phổ cập giáo dục trung học. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Tập trung khắc phục tình trạng cho học sinh không đủ điều kiện lên lớp. Hạn chế học sinh bỏ học giữa chừng. Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị trường học theo hướng kiên cố, hiện đại. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ. Mở rộng và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm. Làm tốt công tác dân số KHHGĐ, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, đảm bảo đạt chỉ tiêu đề ra. Triển khai tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và thu hút thêm nhiều nguồn vốn tài trợ để phát triển y tế. Gắn các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương với giải quyết việc làm, giảm nghèo một cách có hiệu quả. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Vận động toàn xã hội quan tâm chăm lo cho người nghèo. Đặc biệt quan tâm chăm lo, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ cho đối tượng chính sách; coi đây là một trong những nhiệm vụ xã hội quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Tăng cường đưa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao về cơ sở. Đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư phát triển về cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình, đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác.
3. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, làm nền tảng vững chắc để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, phát huy sức mạnh thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Làm tốt công tác phòng chống tội phạm, nâng cao tỉ lệ điều tra phá án. Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông theo Nghị quyết 32 của Chính phủ. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Chỉ đạo tốt công tác giao quân, đảm bảo chỉ tiêu được giao. Chú trọng giáo dục quốc phòng. Tiếp tục diễn tập vận hành cơ chế theo Nghị quyết 02 Bộ chính trị cho huyện Đồng Xuân, Tuy An và 30% xã, phường, thị trấn. Tăng cường bảo vệ an ninh vùng biển. Thúc đẩy các dự án quốc phòng đạt tiến độ.
4. Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền các cấp, các cơ quan chuyên môn tỉnh. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy một số sở, ngành theo cơ cấu của Chính phủ khi có văn bản hướng dẫn. Ổn định bộ máy tổ chức, nhanh chóng ổn định nề nếp làm việc của một số địa phương mới chia tách, thành lập đơn vị hành chính mới như: 3 phường mới thuộc thành phố Tuy Hòa; xã Hòa Định Đông, thị trấn Phú Hòa (thuộc huyện Phú Hòa) khi có Nghị định của Chính phủ. Triển khai tốt Nghị định 132 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế. Hoàn chỉnh Đề án nâng huyện Sông Cầu lên thị xã. Củng cố, kiện toàn BQL dự án theo hướng chuyên nghiệp, đủ sức quản lý các dự án ngày càng có quy mô lớn, hiện đại. Tuyển dụng công chức theo hướng công khai, minh bạch, bố trí công việc phù hợp trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, gắn với giáo dục về đạo đức, lối sống.
5. Tạo bước đột phá trong cải cách hành chính, góp phần tích cực vào quá trình hội nhập, thu hút vốn đầu tư. Triển khai có hiệu quả nghị quyết Trung ương 5 và chương trình hành động của Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Tiếp tục cải cách thủ tục ở những khâu thực tế còn vướng mắc, giảm thời gian xử lý, giảm phiền hà. Tổ chức triển khai tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính. Phân cấp cho UBND các huyện, thành phố, các sở, ban, ngành gắn với công tác kiểm tra, hướng dẫn; đảm bảo sự chủ động, nâng cao năng lực điều hành của chính quyền cấp dưới. Tiếp tục triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong các cơ quan hành chính Nhà nước. Duy trì hoạt động trang thông tin điện tử của UBND tỉnh. Tiếp tục xây dựng, nâng cấp trụ sở, bổ sung trang thiết bị các xã còn lại, từng bước hiện đại hóa nền hành chính.
6. Tiếp tục tập trung đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại – tố cáo. Triển khai đồng bộ Nghị quyết trung ương 3, các luật, Nghị định của Chính phủ và chương trình hành động của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thành lập cơ quan phòng chống tham nhũng chuyên trách cấp tỉnh khi Trung ương có hướng dẫn cụ thể. Tăng cường chỉ đạo của Đảng, tự thanh tra của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị để phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính cho các cơ quan Nhà nước, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế, kinh phí cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Nâng cao chất lượng kiểm tra, thanh tra, không để tình trạng chồng chéo các đoàn thanh tra, gây cản trở hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Ngoài thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thanh tra đột xuất khi cần thiết. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát đối với các lĩnh vực; quản lý đầu tư XDCB, quản lý sử dụng đất đai, quản lý thu – chi ngân sách, quản lý tài sản công để chấn chỉnh kịp thời các sai sót. Công bố công khai kết quả xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí.
7. Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng. Phát động phong trào thi đua yêu nước năm 2008. phát hiện, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.
*
* *
Những mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra cho năm 2008 là hết sức nặng nề, với trách nhiệm của mình UBND tỉnh sẽ nỗ lực tập trung chỉ đạo, điều hành; đồng thời đề nghị Tỉnh ủy, HĐND tỉnh tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia trong một số lĩnh vực công tác và thực hiện tốt công tác giám sát để cùng vượt qua khó khăn thách thức, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, hoàn thành thắng lợi kế hoạch đã đề ra.