Tại Phú Yên, trong các huyện miền núi, Sông Hinh là địa phương ít xảy ra hiện tượng thiếu nước sinh hoạt. Nguyên nhân là do các công trình nước sinh hoạt tập trung ở đây có đội quản lý với cách làm phù hợp và hiệu quả.
Thành lập đội quản lý các công trình nước
Huyện Sông Hinh có 5 công trình nước sinh hoạt tập trung phục vụ cho 5.000 hộ dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ năm 1996, huyện Sông Hinh đã được đầu tư 2 công trình nước, do các doanh nghiệp, UBND xã và hợp tác xã quản lý vận hành. Sau 2 năm, các công trình này rơi vào cảnh hoạt động cầm chừng rồi ngừng hẳn. Theo Phòng Dân tộc huyện Sông Hinh, nguyên nhân là do các đơn vị quản lý không có chuyên môn nên khi các công trình hư hỏng thì không được sửa chữa, khắc phục kịp thời. Lâu dần, các công trình này xuống cấp, nước không đủ cung cấp cho người dân nên không thu được tiền sử dụng nước. Thu không đủ chi nên các công trình này phải “đắp chiếu” vì không có kinh phí tái đầu tư.
Trước tình trạng này, UBND huyện Sông Hinh đã giao Phòng Dân tộc thành lập đội quản lý theo phương châm đơn vị đầu tư là đơn vị vận hành, bảo quản. Ông Lê Văn Tấn, Phó Phòng Dân tộc huyện, Đội trưởng Đội Quản lý các công trình nước sinh hoạt trên địa bàn huyện Sông Hinh, cho biết: Hiện đội có 15 người; trong đó, 11 người chia thành 5 tổ, quản lý trực tiếp tại 5 công trình nước ở các xã Ea Ly, Đức Bình Đông, Ea Lâm, Ea Bá và Sông Hinh. Sau 2 năm đi vào hoạt động, các công trình nước đã phát huy hiệu quả, thu hút ngày càng đông người sử dụng và cho doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2013, toàn huyện có 2.100 hộ dân đăng ký sử dụng nước tập trung tại các công trình này, đạt doanh thu 600 triệu đồng. Năm 2014 tăng lên 2.300 hộ, doanh thu 850 triệu đồng. Năm 2015 là 3.500 hộ, cho doanh thu hơn 1,2 tỉ đồng.
Vượt khó, phát huy hiệu quả
Ngay từ khi mới thành lập, Đội Quản lý các công trình nước trên địa bàn huyện Sông Hinh cũng đã gặp không ít khó khăn về thu chi, sao cho vừa duy trì hoạt động các công trình nước vừa ổn định đời sống kinh tế thành viên trong đội. Theo ông Lê Văn Tấn, quá trình vận hành công trình nước đòi hỏi phải sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên. Đội hạch toán kinh tế theo hình thức lấy thu bù chi. Tại địa phương, người dân vẫn có thói quen tắm, giặt ở sông, suối, chỉ sử dụng nước máy để nấu ăn hoặc khi cấp bách, nên lượng nước sử dụng hàng tháng của các hộ dân thấp, bình quân chỉ đạt 5-7m3/hộ. Ngoài giá chung 6.000 đồng/m3 thì đối với các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, đội chỉ thu 5.000 đồng/m3 nước. Để tăng nguồn thu, đội đẩy mạnh tuyên truyền, giúp người dân hình thành thói quen sử dụng nước sạch trong sinh hoạt. Bên cạnh đó, đội cơ động trong điều hành nhân viên, tức là bất kỳ công trình nào gặp sự cố, ngoài 2 nhân viên kỹ thuật, đội sẽ huy động thêm người từ các công trình khác ở các xã gần đó tới hỗ trợ, nhằm hạn chế việc phải thuê lao động bên ngoài. Nhờ vậy, 3 năm nay, các công trình nước do đội quản lý đều hoạt động tốt, không xảy ra tình trạng mất nước nhiều ngày hay nước không đảm bảo vệ sinh.
Anh Vũ Thanh Bình, Tổ trưởng Tổ Quản lý nước xã Ea Bá, cho biết: Công trình được đưa vào sử dụng năm 2013 với công suất 500m3/ngày đêm. Hiện cung cấp nước cho 486 hộ, đạt 50% công suất. Doanh thu hàng tháng bình quân 14 triệu đồng. Trong những tháng đầu năm 2016, công trình này được mở rộng để cấp nước thêm cho 100 hộ ở buôn Bầu.
Còn theo Oi Mang ở xã Ea Lâm, những năm trước, người dân ở đây thường sử dụng nước ở sông, suối. Tới mùa nắng hạn, mực nước xuống thấp, đồng bào phải vất vả đi lấy nước về dùng; công trình cũng không có đủ nước cung cấp cho người dân. 3 năm nay, từ khi xã có tổ quản lý thì người dân mới có đủ nước dùng.
HẢI PHONG