Phú Yên đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục để khởi công Nhà máy lọc dầu Vũng Rô, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư Khu kinh tế Nam Phú Yên, các khu công nghiệp ven biển, các dự án du lịch biển, đảo và sinh thái; đồng thời kêu gọi toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng đô thị các địa phương.
Tấp nập mua bán, vận chuyển thủy sản ở cảng cá phường 6, TP Tuy Hòa - Ảnh: P.NAM
TIỀM NĂNG VÀ THẾ MẠNH
Với chiều dài 189km bờ biển, có diện tích biển và vùng đặc quyền kinh tế trên 34.000km2, Phú Yên có nhiều đầm vịnh lớn, rạn san hô, thảm thực vật biển và có 3 sông lớn đổ ra biển… tạo thuận lợi cho nhiều loại thủy sản sinh sôi, phát triển. Vì vậy, nguồn lợi thủy sản của Phú Yên khá phong phú, đa dạng với trên 500 loài cá, 30 loài tôm, 15 loài mực và các loài nhuyễn thể, trong đó có 35 hải đặc sản giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, nhiều người biết đến Phú Yên như là cái “nôi” của cá ngừ đại dương, các loại tôm, cua huỳnh đế, sò huyết, ốc nhảy… Để khai thác thế mạnh thủy sản, nhiều năm qua Phú Yên tập trung đầu tư phát triển đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản với đội tàu cá trên 7.000 chiếc. Trong tổng số hơn 2.000 tàu câu cá ngừ đại dương của 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa thì Phú Yên có 1.003 tàu công suất từ 90 đến hơn 400CV chuyên hoạt động ở các vùng biển xa câu cá ngừ đại dương. Hầu hết các tàu này đều được trang bị máy liên lạc tần số cao, máy định vị vệ tinh, hải đồ, nhiều tàu trang bị máy dò tìm cá. Lực lượng đánh bắt thủy sản của Phú Yên có 30.000 lao động, trong đó hơn 8.500 lao động đánh bắt xa bờ, bước đầu đã hình thành 105 tổ tàu thuyền an toàn với 827 tàu thuyền, 5 nghiệp đoàn nghề cá với 535 đoàn viên và 568 tàu đánh bắt thủy sản xa bờ.
Theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt, Phú Yên có 4 cảng cá, 6 bến cá và 6 khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão. Đến nay, tỉnh đã xây dựng được 2 cảng cá, 1 bến cá và 2 khu tránh trú bão. Hiện tỉnh cũng đã quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản đến năm 2020 với tổng diện tích hơn 11.000ha, gồm nước lợ 2.171ha, nước ngọt 188ha, vùng biển 1.650ha, mặt nước hồ thủy điện 7.000ha và 67ha chuyên sản xuất giống. Năm 2013, sản lượng đánh bắt thủy sản toàn tỉnh đạt 49.550 tấn, tăng 33% so với năm 2008; riêng cá ngừ đại dương trung bình hàng năm khai thác khoảng 5.500 tấn.
Phú Yên có 75 cơ sở chế biến hải sản tiêu thụ nội địa và 6 công ty chế biến thủy sản xuất khẩu. Sản lượng thủy sản chế biến năm 2013 đạt 3.916 tấn, đạt giá trị xuất khẩu hơn 33,5 triệu USD, chiếm 33% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, tăng gấp 3 lần về sản lượng và gấp 6,3 lần về giá trị so với năm 2008. Kết quả khai thác, nuôi trồng, xuất khẩu thủy sản Phú Yên năm 2013 chiếm 8% GDP và 36% tổng giá trị sản phẩm nông lâm nghiệp của tỉnh. Những năm qua, Phú Yên đã khẳng định sự không ngừng phát triển và tầm quan trọng của ngành thủy sản trong nền kinh tế của tỉnh.
Theo Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Lê Văn Trúc, Phú Yên có rất nhiều lợi thế, có nhiều tiềm năng và thế mạnh nhưng thời gian qua hiệu quả hoạt động khai thác thủy sản còn thấp, tàu thuyền đánh bắt xa bờ công suất còn nhỏ; kỹ thuật khai thác, bảo quản và sơ chế còn thấp, dẫn đến sản phẩm khai thác vừa ít lại kém chất lượng, giá trị thấp. Trong mùa biển nhiều tàu thuyền thua lỗ phải nằm bờ. Nghề nuôi trồng thủy sản còn bấp bênh, thiếu giống tốt và kỹ thuật nuôi tiên tiến, khả năng phòng chống dịch kém. Việc tổ chức liên kết sản xuất giữa nuôi trồng, khai thác với thu mua bảo quản chế biến còn nhiều hạn chế, chưa tạo động lực cho các khâu sản xuất; các doanh nghiệp còn lúng túng trong xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, nhất là thị trường nguyên liệu cho chế biến thủy sản.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
Nhằm phát triển mạnh nghề cá, tỉnh Phú Yên đang tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính chiến lược, bền vững như: Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận về việc phát triển thủy sản bền vững cho cả hệ thống chính trị cơ sở và cộng đồng; huy động nhiều nguồn vốn xã hội, nhất là nội lực ngư dân để cải hoán tàu thuyền lớn, hiện đại, gắn với sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA và vốn đối ứng để thực hiện tốt các hợp phần dự án nguồn lợi ven biển; tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển thủy sản theo quy hoạch. Trong đó, ưu tiên kêu gọi đầu tư các dự án thu mua, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương; đầu tư xây dựng các trung tâm dịch vụ, hậu cần nghề cá và phát triển vùng sản xuất muối tập trung; phát triển mạnh thị trường tiêu thụ hải sản trong và ngoài nước…
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Đình Cự, hiện Phú Yên đang khuyến khích các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tham gia các hiệp hội để thực hiện tốt chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, mở rộng xuất khẩu các sản phẩm thủy sản; trong đó, chú ý nâng cao sản lượng thủy sản xuất khẩu sang các thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Nga, Trung Quốc… Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu phát triển thủy sản; tập trung ưu tiên đào tạo cán bộ có chuyên môn cao trong quản lý nhà nước và đào tạo nguồn nhân lực đánh bắt thủy sản xa bờ. Ngoài ra, tỉnh đang tiếp tục sắp xếp tổ chức lại sản xuất thủy sản theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; tạo sự gắn kết, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro giữa sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến... Trong đó, lĩnh vực nuôi trồng đưa nhanh các tiến bộ khoa học thân thiện môi trường, các biện pháp quản lý tiên tiến VietGAP vào sản xuất, gắn với tăng cường công tác kiểm tra thú y thủy sản và công tác kiểm soát để tăng công suất, sản lượng, đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tiếp tục vận động thành lập các nghiệp đoàn nghề cá, khuyến khích thành lập các đội tàu dịch vụ hậu cần, mua gom sản phẩm cho các tàu khai thác xa bờ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về thủy sản theo hướng phát triển bền vững. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, ngành Thủy sản Phú Yên sẽ phát triển nhanh, mạnh theo hướng CNH, HĐH và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Phú Yên đến năm 2020.
PHƯƠNG NAM