Chủ Nhật, 29/09/2024 06:27 SA
Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng năm 2006 và nhiệm vụ kế hoạch năm 2007
Thứ Tư, 13/12/2006 08:50 SA

061213-ba-Ha.jpg

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Thị Hà đọc báo cáo của UBND tại kỳ họp thứ 8, HĐND tỉnh khóa V - Ảnh: N.LƯU

PHẦN THỨ NHẤT

 

Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội và an ninh-quốc phòng năm 2006

 

Trong năm 2006, tỉnh ta gặp nhiều khó khăn như: dịch bệnh lở mồm long móng gia súc; biến động về giá cả thị trường, tình hình an ninh trật tự một số nơi trong tỉnh diễn biến phức tạp... Mặc dù vậy, được sự lãnh đạo của Chính phủ và Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh -quốc phòng. Trong 10 chỉ tiêu chủ yếu, có 08 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, 02 chỉ tiêu không đạt kế hoạch.

 

Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu như sau:

    

061213-bang1.jpg
                         

 Cụ thể trên các lĩnh vực như sau:

 

I. Nền kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn 2.905,1 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994), tăng 11,6% so năm trước. 

 

1. Sản xuất nông-lâm- thuỷ sản năm nay tuy gặp nhiều yếu tố bất lợi nhưng nhờ có sự tập trung chỉ đạo nên vẫn ổn định và phát triển.

 

- Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá cố định năm 1994) 1.340 tỷ đồng, tăng 2,1% so năm trước. Lúa vụ đông xuân thiệt hại do thời tiết phải gieo sạ lại nhiều lần, bên cạnh đó sâu bệnh gây hại làm ảnh hưởng lớn đến năng suất lúa chỉ đạt 55,5 tạ/ha giảm 5,5 tạ/ha so cùng vụ năm trước; vụ hè thu đạt 62,2 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha, đây là vụ lúa hè thu có năng suất cao nhất từ trước đến nay, bù lại thiếu hụt vụ đông xuân, đảm bảo đạt chỉ tiêu sản lượng lương thực năm 2006. Một số cây trồng chủ lực khác năng suất đạt khá như: bắp NSBQ 24 tạ/ha, sắn NSBQ 16,7 tấn/ha, mía NSBQ 47 tấn/ha, điều  NSBQ 4 tạ/ha...

 

Chăn nuôi gặp nhiều khó khăn, thời tiết rét lạnh đầu năm và bệnh LMLM ở gia súc đã gây thiệt hại đáng kể. Dịch LMLM xảy ra ở 82 xã, phường, thị trấn ở cả 9 huyện, thành phố trong tỉnh với 13.891 gia súc mắc bệnh, đã chết 763 con, ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người chăn nuôi. Tỉnh đã thực hiện khá tốt công tác phát hiện, phòng ngừa và điều trị bệnh cho gia súc, gia cầm, cuối tháng 11/2006 hoàn thành công tác tiêm phòng cho gia súc, gia cầm. Cơ bản kiểm soát được bệnh LMLM và nhiều năm liền không để xảy ra dịch cúm gia cầm trên địa bàn.

 

- Tiến hành rà soát quy hoạch 3 loại rừng theo hướng giảm diện tích rừng phòng hộ ít xung yếu để chuyển sang diện tích trồng rừng kinh tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư phát triển trồng rừng sản xuất, đồng thời củng cố các BQL rừng. Bước đầu đã có sự chuyển biến trong dân việc trồng rừng, nhận khoán bảo vệ, chăm sóc rừng, góp phần nâng độ che phủ rừng toàn tỉnh lên 36,4%. Đã trồng  2.360 ha rừng tập trung đạt 59% kế hoạch năm, giảm 31,4% so năm trước; trồng 2,7 triệu cây phân tán tăng 8%. Khai thác 12.050 m3 gỗ tròn các loại, tăng 14%, trong đó gỗ rừng trồng 7.050 m3 giảm 3,4%, khai thác rừng tự nhiên 5.000 m3, nhờ tận thu gỗ lòng hồ thuỷ điện Sông Ba Hạ trên 3.000 m3. Giá trị sản xuất lâm nghiệp (giá cố định năm 1994) là 33 tỷ đồng, tăng 3,3% so năm trước. Công tác quản lý, bảo vệ rừng tuy được tăng cường, nhưng số vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng có chiều hướng gia tăng với 978 vụ (tăng 58 vụ so năm trước).

 

- Công tác tổ chức, quản lý dịch vụ hậu cần khai thác thuỷ sản có tiến bộ. Năm nay, giá cả xăng dầu liên tục tăng, ngư trường biến động nên khai thác thuỷ sản, nhất là đánh bắt cá ngừ đại dương gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, việc chuyển  đổi mạnh sang khai thác cá ngừ đại dương chủ yếu là tự phát trong ngư dân, chưa có sự định hướng của ngành thuỷ sản để phát triển bền vững và có nhiều yếu tố rủi ro. Giá trị sản xuất thuỷ sản (giá cố định năm 1994) 669,2 tỷ đồng, giảm 0,7% so năm trước. Khai thác 35.455 tấn thuỷ sản, đạt 107,4% KH năm, tăng 0,1% so năm trước; trong đó cá ngừ đại dương 3.000 tấn, giảm 40,5%.  Đóng mới 72 tàu thuyền, nâng tổng số lên  4.117 chiếc, với công suất  135.520 CV. 

 

Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến ngư, nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật nuôi đối tượng mới cho nông dân. Cơ cấu sản phẩm nuôi trồng đa dạng hơn, ngoài nuôi tôm sú, tôm hùm lồng, đã triển khai một số mô hình nuôi cá lóc, cá bống tai tượng, cá rô phi đơn tính, cá chép lai, cua thương phẩm…Nuôi tôm sú có hiệu quả, do thực hiện tốt việc thả nuôi tôm theo lịch thời vụ và đảm bảo mật độ nên bệnh tôm chỉ xảy ra rải rác. Toàn tỉnh thả nuôi 2.578 ha thuỷ sản các loại, đạt 85,9% KH năm, tăng 11,7% so năm trước; thả nuôi 18.400 lồng tôm hùm tăng 5,1%. Sản lượng thu hoạch 3.520 tấn, đạt 88% KH năm, tăng 10,9% so năm trước; trong đó tôm sú 1.450 tấn giảm 1,3%, tôm thẻ chân trắng 670 tấn tăng 65%, tôm hùm 750 tấn tăng 1,4%. Ngoài huyện Sông Cầu thực hiện khá tốt việc chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản, các địa phương ven biển khác triển khai còn chậm.

 

- Đã chỉ đạo xây dựng và triển khai kế hoạch phòng chống lụt bão ngay từ đầu năm. Tổ chức hội nghị tổng kết công tác phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn 5 năm (2001-2005), triển khai nhiệm vụ giai đoạn 2006-2010 và năm 2006. Triển khai các biện pháp chủ động phòng chống lụt bão, nhất là các cơn bão dự báo đổ bộ vào miền Trung như bão số 1, số 6, số 7, số 8. Ảnh hưởng cơn bão số 1 và triều cường làm chết 01 người, thiệt hại tài sản trên 33 tỷ đồng.

 

Nhìn chung cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp, thuỷ sản có chuyển dịch nhưng còn chậm. Năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi còn thấp. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu bán thô, chưa qua chế biến để tăng giá trị sản phẩm. Sản xuất lúa chỉ mới đảm bảo an ninh lương thực, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong tỉnh, trong nước, chưa đảm bảo chất lượng gạo để xuất khẩu. Sản xuất hàng hóa đang là vấn đề đặt ra cho ngành nông nghiệp và thuỷ sản. Trồng rừng kinh tế và các hoạt động lâm sinh hiệu quả kinh tế thấp, chưa khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia.

 

 2. Công nghiệp giữ nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định.

 

Giá trị sản xuất công nghiệp- TTCN (giá cố định 1994) 2.510 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, tăng 20,6% so năm trước. Có thêm 19 dự án công nghiệp đi vào hoạt động, đáng chú ý là: Nhà máy sản xuất ô tô JRD (công suất 15.000 xe khách, xe tải nhẹ/năm) tại xã An Mỹ, huyện Tuy An và Nhà máy sản xuất phân bón NPK (công suất 120.000 tấn sản phẩm/năm) tại KCN Đông Bắc Sông Cầu. Đang triển khai đầu tư dự án nâng công suất nhà máy bia Sài Gòn-Phú Yên lên 23 triệu lít/năm và 21 dự án khác.  

 

Công tác quản lý và vận hành điện đảm bảo an toàn. Tổng sản lượng điện sản xuất 460 triệu KWh, tăng 24,7% so năm trước, phục vụ cung ứng điện cho phát triển kinh tế-xã hội địa phương, nhất là trong sản xuất. Thực hiện đầu tư cấp điện cho một số thôn, buôn chưa có điện ở 2 huyện Sông Hinh, Tuy An và triển khai dự án năng lượng nông thôn (RE 2). Phối hợp thúc đẩy tiến độ dự án thuỷ điện Sông Ba Hạ, Krông năng và cho phép một số doanh nghiệp lập thủ tục chuẩn bị đầu tư: nhà máy thuỷ điện La Hiêng 1, La Hiêng 2, thuỷ điện Khe Cách trên địa bàn tỉnh.

 

- Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, cụm điểm công nghiệp. Đến nay, đã có 65 dự án đăng ký đầu tư vào các KCN với diện tích đất đăng ký là 216,1 ha.  Đã có 35 dự án đã đi vào hoạt động, 16 dự án đang triển khai. Các khu công nghiệp đã thu hút trên 6.800 lao động, doanh thu 696 tỷ đồng, góp phần giải quyết lao động, tham gia xuất khẩu hàng hóa. Ngoài ra, còn có 4 cụm điểm công nghiệp là: Hoà An, Tam Giang, TT Sông Cầu, TT Hai Riêng đang triển khai đầu tư kết cấu hạ tầng; trong đó cụm  Hoà An và Tam Giang thu hút 17 dự án đăng ký đầu tư,  9 dự án đã đi vào hoạt động. Gần đây khu công nghiệp Hoà Hiệp thu hút đầu tư có dấu hiệu chững lại; trong khi đó đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Nhiều dự án trong khu công nghiệp triển khai chậm, tổng vốn đầu tư thực hiện chỉ đạt 419,3 tỷ đồng và 5,3 triệu USD (tổng vốn đăng ký là 1.160 tỷ đồng và 35,6 triệu USD). Quản lý nhà nước đối với các cụm điểm công nghiệp còn một số sơ hở, để xảy ra tình trạng xây dựng không đúng thiết kế được duyệt.

 

3. Các ngành dịch vụ tiếp tục được mở rộng và ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân; trong đó thương mại, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông có sự phát triển khá nhanh; cảng Vũng Rô đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả.

 

 - Hoạt động thương mại phát triển, công tác quản lý thị trường được tăng cường.  Hệ thống chợ được đầu tư, nâng cấp, đã hoàn thành 2 đơn nguyên chợ trung tâm thành phố Tuy Hoà đưa vào sử dụng và phối hợp chủ đầu tư tổ chức lễ động thổ siêu thị Co.op Mart Tuy Hoà. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 3.765,6 tỷ đồng,  đạt 100,4% KH năm, tăng 18,6% so năm trước. Tổng kim ngạch hàng địa phương xuất khẩu đạt 84,1% kế hoạch năm, tăng 8,3% so năm trước. Mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chủ yếu là nhân hạt điều, hàng may mặc, hàng thuỷ sản chế biến, hàng mây tre lá… Kim ngạch nhập khẩu 95,9 triệu USD, tăng gấp 2,5 lần so kế hoạch năm, tăng gấp 2,8 lần so năm trước.

 

Đã thu hút thêm một số doanh nghiệp tư nhân đầu tư kinh doanh dịch vụ du lịch. Có 6 cơ sở kinh doanh du lịch được đầu tư xây dựng mới, đã hoàn thành đi vào hoạt động với 134 phòng, giá trị đầu tư 24,1 tỷ đồng, nâng tổng số toàn tỉnh lên 32 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch.  Doanh thu dịch vụ du lịch 30,4 tỷ đồng, đạt 116,8% kế hoạch năm, tăng 52% so cùng kỳ. Dịch vụ du lịch có phát triển, song chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, đội ngũ quản lý, nhân viên du lịch chưa đáp ứng yêu cầu.

 

- Dịch vụ vận tải mặc dù chịu ảnh hưởng giá cả xăng dầu nhưng hoạt động ổn định. Doanh thu vận tải 314,7 tỷ đồng, tăng 18,6% so năm trước. Mô hình xe khách chất lượng cao của một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả. Hệ số ghế sử dụng tuyến đường bay Tuy Hoà- TP Hồ Chí Minh duy trì trên 63%. Cảng Vũng Rô đã có 124 lượt tàu cập bến, sản lượng bốc xếp 112.510 tấn, đạt 212,2% kế hoạch năm.

 

- Dịch vụ bưu chính viễn thông được mở rộng, 100% xã có điểm bưu điện văn hóa xã, tuy nhiên hiệu quả hoạt động chưa cao. Đã phát triển mới 8.500 máy điện thoại và 560 thuê bao internet, đạt mật độ 15,4 máy điện thoại/100 dân. Tổng doanh thu bưu chính viễn thông 125 tỷ đồng.  

 

- Hoạt động tín dụng ngân hàng có tiến bộ, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tổng nguồn vốn huy động 3.400 tỷ đồng, tăng 8% so năm 2005. Huy động vốn tại chỗ 1.900 tỷ đồng đáp ứng 58,5% nhu cầu vốn trên địa bàn; trong đó tiền gửi của tổ chức kinh tế và kho bạc 900 tỷ đồng tăng 3% so đầu năm; tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu là 1.000 tỷ đồng tăng 28%. Tổng dư nợ đến cuối năm 3.250 tỷ đồng, tăng 18% so đầu năm; trong đó các ngân hàng thương mại nhà nước 2.820 tỷ đồng tăng 12% so đầu năm; Ngân hàng chính sách xã hội 350 tỷ đồng tăng 40%; Chi nhánh ngân hàng TMCP Sài Gòn -Thương Tín 80 tỷ đồng tăng 2,5 lần; các quỹ tín dụng nhân dân 10 tỷ đồng, tăng 40%. Số nợ quá hạn đến cuối năm dự ước 125 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ.

 

4. Làm khá tốt công tác quy hoạch, kế hoạch, đồng thời tiếp tục huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển đi đôi với đổi mới công tác quản lý đầu tư xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:

 

- Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch ngày càng đi vào nề nếp. Quy hoạch chung, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực  được chú trọng; quản lý xây dựng được tăng cường, tạo cơ sở quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh Phú Yên đến năm 2020; quy hoạch tổng thể KTXH vùng cao nguyên Vân Hoà. Triển khai hoàn chỉnh Đề án quy hoạch phát triển khu kinh tế Nam Phú Yên gắn với khu kinh tế Vân Phong của Khánh Hoà. Cơ bản hoàn thành đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP Tuy Hoà đến năm 2025 và thiết kế quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Nam TP Tuy Hoà. Hoàn chỉnh điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất  tỉnh đến năm 2010- định hướng đến 2020 và tiếp tục triển khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các huyện, thành phố. Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển ngành công nghiệp. Điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại tỉnh và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Phú Yên đến năm 2020…Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng, quản lý kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quản lý quy hoạch, quản lý kiến trúc được tăng cường, nhưng tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà ở trái phép, sai phép ở những vùng quy hoạch chưa được ngăn chặn kịp thời.

 

- Tỉnh đã có nhiều cố gắng trong huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển, tăng đáng kể các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài nhà nước. Tập trung bổ sung, sửa đổi các văn bản tạo sự thông thoáng về thủ tục hành chính và  tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư. Đã rà soát, bổ sung một số quy định về quản lý đầu tư xây dựng đối với các công trình do tỉnh quản lý; ban hành bộ đơn giá xây dựng mới. Củng cố lại các BQL dự án, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Qua rà soát các dự án đã quá thời hạn nhưng không triển khai, đã thu hồi 05 dự án trong KCN và 07 dự án du lịch.

 

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 2.985 tỷ đồng, đạt 96,3% kế hoạch năm, tăng 14,8% so năm trước; trong đó vốn ngân sách tỉnh tăng 6,9%, vốn ngoài nhà nước tăng 19,1%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng gấp 2,4 lần…Khởi công xây dựng mới cầu Hùng Vương, cầu La Hai, kè bờ Nam, dự án bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh, hồ chứa nước Hòn Dinh... Tập trung khắc phục sự cố ngã, đổ cọc thuộc gói thầu số 4 công trình kè Bạch Đằng và một số sai phạm dự án chỉnh trị cửa sông Đà Nông. Chỉ đạo tháo gỡ các vướng mắc phát sinh về vốn, thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy thi công công trình. Tập trung thúc đẩy  các công trình thuỷ lợi, giao thông, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa... Đặc biệt quan tâm đầu tư cho thuỷ lợi, giao thông, nhà ở cho hộ nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn…cho khu vực miền núi. Chương trình 134, thực hiện xong 541 nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số, đạt 67,6% kế hoạch; xây dựng giếng nước sinh hoạt đạt 50% kế hoạch. Tiếp tục triển khai chương trình 135 giai đoạn 2. Ngoài ra, chính sách định canh định cư, trợ cước trợ giá và một số chính sách khác đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội miền núi. Qua tổng kết 7 năm triển khai chương trình 135 đã cho thấy vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có sự phát triển khá, cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp, đời sống của đồng bào được cải thiện đáng kể. Hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình với tổng giá trị tài sản cố định mới tăng 1.412 tỷ đồng, tăng 7,4 %.  Bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều khởi sắc. (Tiến độ cụ thể các công trình xây dựng cơ bản có báo cáo riêng).

 

Nhìn chung, lĩnh vực đầu tư phát triển tuy có tiến bộ hơn so với những năm trước, song vẫn còn bất cập. Nhiều công trình xây dựng cơ bản chậm, ngoài nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu, nhựa đường, lập lại thủ tục theo văn bản pháp luật mới…; thì nguyên nhân chủ yếu là năng lực về tài chính và quản lý của  một số nhà thầu, tư vấn còn yếu; năng lực chủ đầu tư điều hành còn hạn chế, một số trường hợp có sự buông lỏng quản lý trong xây dựng cơ bản của các chủ đầu tư, các ngành chức năng; từ khâu khảo sát thiết kế, lập dự toán thiếu chính xác, đấu thầu, thi công, giám sát và thanh quyết toán còn nhiều sai sót; công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư chậm…Chương trình 134 triển khai chậm, chất lượng chưa đảm bảo. Việc huy động vốn đối ứng của dân để thực hiện chương trình kiên cố hóa trường học gặp khó khăn, nhất là khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, nên ảnh hưởng đến tiến độ triển khai.

 

5. Thu chi ngân sách có nhiều cố gắng.  Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước 605 tỷ đồng, đạt 138% dự toán trung ương giao và 103,4% dự toán Tỉnh. Tổng chi ngân sách ước 1.435,4 tỷ đồng, đạt 95,1% dự toán tỉnh. Thu ngân sách tuy vượt dự toán HĐND tỉnh giao, nhưng cơ cấu nguồn thu không đạt, trong đó thu từ khối doanh nghiệp nhà nước tỉnh và bán quyền sử dụng đất đạt thấp. Do đó mới chỉ đáp ứng yêu cầu cơ bản về chi thường xuyên, chi cải cách tiền lương và một số khoản cần thiết khác, chưa bảo đảm được nguồn vốn chi đầu tư xây dựng cơ bản.

 

6. Hoạt động của các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh, nhất là thành phần kinh tế tư nhân phát triển và làm ăn có hiệu quả, làm giàu chính đáng, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh  là 576 doanh nghiệp, trong đó có 7 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước tỉnh qua sắp xếp còn 05 doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp sau sắp xếp được tỉnh quan tâm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn ban đầu để ổn định hoạt động. Đã thu hút đáng kể vốn kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, trong năm cấp mới đăng ký kinh doanh cho 170 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký 303,4 tỷ đồng, gồm 83 DNTN, 73 Cty TNHH, 14 Công ty cổ phần. Đáng chú ý doanh nghiệp tư nhân Thuận Thảo là một trong 100 doanh nghiệp được chọn là doanh nhân tiêu biểu của cả nước. Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Đã giải thể 04 HTX hoạt động không hiệu quả, thành lập mới 01 HTX nuôi trồng và dịch vụ tổng hợp thuỷ sản. Toàn tỉnh hiện còn 206 hợp tác xã, trong đó có 62 HTX khá giỏi chiếm 30%, 83 HTX trung bình chiếm 40,3%, 61 HTX yếu kém chiếm 29,7%.  Ngoài ra,  còn có 2.735 trang trại, tăng 3,8% so năm trước.

 

7. Công tác quản lý tài nguyên môi trường được thực hiện chặt chẽ hơn, từng bước quản lý và sử dụng có hiệu quả các loại  tài nguyên. Tổ chức thẩm định các hồ sơ xin giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất chặt chẽ hơn, nhằm sử dụng tiết kiệm và hiệu quả hơn các loại tài nguyên, khoáng sản. Đã giao đất cho 88 tổ chức, giao đất xây dựng nhà ở cho 1.015 hộ gia đình; chuyển mục đích  sử dụng đất 88.864 m2. Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được đẩy mạnh. Đã cấp 163 giấy chứng nhận QSD đất cho tổ chức và 34.694 giấy chứng nhận QSD các loại đất cho hộ gia đình, cá nhân. Tiến hành kiểm tra, thanh tra xử lý nghiêm những trường hợp sử dụng đất sai mục đích; thu hồi đất của những đơn vị, cá nhân sử dụng không có hiệu quả và ngăn chặn khai thác tài nguyên nước, khai thác khoáng sản trái phép, tuy nhiên công tác quản lý nhà nước về tài nguyên còn sơ hở, tình trạng trên vẫn   còn xảy ra ở một số địa phương.

 

Công tác quản lý nhà nước về môi trường nói chung có tiến bộ, song quản lý môi trường của các nhà máy, cơ sở chế biến công nghiệp vẫn còn là khâu yếu. Đã tổ chức triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho người dân, các doanh nghiệp có ý thức trách nhiệm hơn trong bảo vệ môi trường; đồng thời xử lý kiên quyết những trường hợp gây ô nhiễm môi trường.

 

II. Các lĩnh vực văn hóa-xã hội có chuyển biến tích cực.

 

1. Chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai tích cực, quy mô giáo dục đào tạo được mở rộng, chất lượng ngày càng được nâng cao. Toàn tỉnh có 429 đơn vị trường học từ mầm non đến cao đẳng.  Thực hiện tốt xét công nhận tốt nghiệp THCS và tổ chức thi tốt nghiệp THPT, bổ túc THPT đạt kết quả khá: tỷ lệ tốt nghiệp THPT là 85,7%, bổ túc THPT  là 63,3%.  Học sinh Phú Yên đạt 46 giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Đã kiểm tra công nhận 3 trường tiểu học và 2 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành phổ cập THCS ở 10 xã đạt chỉ tiêu đề ra,  đang hoàn tất hồ sơ để trình Bộ Giáo dục đào tạo kiểm tra, công nhận tỉnh đạt chuẩn phổ cập THCS. Huy động trẻ trong độ tuổi đến trường năm học 2006-2007 đạt tỷ lệ cao, số trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt tỷ lệ 98,3%, trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,9%; tuyển mới vào lớp 6 đạt 96,9%, vào lớp 10 đạt 70,7%. Chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn khá cao: 95,3% giáo viên mầm non đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn 5,7%; 98,8% giáo viên tiểu học đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn 44,4%; giáo viên THCS đạt chuẩn 98,7%, trong đó trên chuẩn 26,5%, giáo viên THPT đạt chuẩn 99,1%. Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” được sự đồng thuận trong xã hội.

 

Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được tăng cường. Tổng số phòng học hiện có là 5.288 phòng. Chương trình kiên cố hóa trường học từ nguồn vốn của Chính phủ đã hoàn thành đưa vào sử dụng 271 phòng, tiếp tục xây dựng 190 phòng còn lại. Có nhiều cố gắng đầu tư trang thiết bị phục vụ dạy và học, nhưng việc quản lý, sử dụng hiệu quả không cao, nhiều trường còn thiếu phòng chức năng phục vụ cho giảng dạy. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, riêng trong hè năm 2006 nhân dân đã đóng góp trên 4,3 tỷ đồng để xây dựng và tu sửa trường lớp. Hoạt động khuyến học phát triển, 96/106 xã, phường, thị trấn có Hội Khuyến học. Đã tích cực triển khai dự án khả thi trường Đại học Phú Yên, trình Chính phủ. 

 

2. Công tác khoa học công nghệ được chú trọng, việc tuyển chọn đề tài chặt chẽ hơn, tuy nhiên điểm yếu của công tác này là nhiều đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ hiệu quả ứng dụng phục vụ sản xuất và đời sống còn hạn chế. Trong năm, đã xét tuyển 2 đề tài tuyển chọn và xét duyệt 10 đề tài chỉ định; tổ chức nghiệm thu 9 đề tài, với tổng kinh phí sự nghiệp KHCN đã cấp trên 02 tỷ đồng. Tiếp tục triển khai dự án hoa hồng, hoa cúc, lan đầu dòng và cây ăn quả đầu dòng. Tăng cường công tác quản lý an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ trên địa bàn tỉnh, cấp phép sử dụng X quang cho 04 cơ sở.  Tích cực hướng dẫn đăng ký sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa. Tổ chức thanh tra thường xuyên các hoạt động tiêu chuẩn- đo lường- chất lượng, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, đã mở 8 lớp đào tạo về tin học cho gần 200 cán bộ công chức, nâng tổng số được đào tạo toàn tỉnh lên 654 người. Tiếp tục triển khai dự án khu nông nghiệp áp dụng công nghệ cao tại xã Hoà Quang, huyện Phú Hoà.  

 

3. Tiếp tục kiện toàn bộ máy ngành y tế và đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, bố trí một số cơ sở của huyện Tuy Hoà cũ ở  phường Phú Lâm cho một số đơn vị y tế.  Tỉnh đã cố gắng khắc phục sự quá tải ở một số khoa, phòng bệnh viện tuyến tỉnh để phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Y tế dự phòng được triển khai tích cực, không để dịch bệnh xảy ra ở người. Số người mắc sốt xuất huyết ở mức 53 ca mắc/100.000 dân, giảm 30% so năm 2005; số người mắc sốt rét còn ở mức 1,5/1.000 dân. Tiếp tục phòng chống các bệnh xã hội, duy trì kết quả thanh toán bệnh phong và bệnh mù lòa trên phạm vi toàn tỉnh; thực hiện tốt việc khám và mổ đục thuỷ tinh thể cho bệnh nhân nghèo. Phát hiện, điều trị 900 bệnh nhân lao; phát hiện mới 350 bệnh nhân động kinh và tâm thần phân liệt. Một số kỹ thuật mới được áp dụng có hiệu quả trong chẩn đoán và điều trị bệnh như: chụp CT scanner, phẫu thuật nội soi, chạy thận nhân tạo…Đã điều trị nội trú cho 60.000 bệnh nhân, phẫu thuật cho 64 trường hợp mắc bệnh xơ hóa cơ delta. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm đủ liều vắc xin phòng bệnh đạt trên 94%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm 2%, đạt chỉ tiêu đề ra. Việc kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm được thực hiện thường xuyên.

 

Tuy có sự quan tâm đầu tư, nhưng các trung tâm y tế dự phòng cấp huyện, y tế cơ sở còn khó khăn, chưa phát huy đầy đủ năng lực trong khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu của nhân dân.  

 

4. Thực hiện khá tốt các dự án chương trình quốc gia về dân số, kế hoạch hóa gia đình. Các hình thức tuyên truyền về dân số kế hoạch hóa gia đình ngày càng phong phú; dự án tín dụng gia đình mang lại hiệu quả thiết thực; hoàn thành tốt chiến dịch chăm sóc sức khoẻ sinh sản…đã góp phần tích cực trong việc thực hiện đạt mức giảm sinh đề ra là 0,5%0 . Duy trì hoạt động của 73 câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững. Công tác chăm lo cho trẻ em được chú trọng và ngày càng được xã hội hóa cao. Đã huy động cộng đồng 250 triệu đồng và trích ngân sách 120 triệu đồng hỗ trợ tổ chức Tết Trung thu cho thiếu nhi. Vận động tài trợ cho 55 em vá môi hở hàm ếch và 56 em phẫu thuật chỉnh hình. Tiếp tục thực hiện chương trình đưa trẻ em lang thang về với gia đình và phòng chống tai nạn, thương tích cho trẻ em. Hỗ trợ học nghề cho 22 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với kinh phí 57 triệu đồng.

 

5. Công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và chăm lo cho đối tượng chính sách có những chuyển biến tích cực. Cơ cấu lao động từng bước có sự chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.  Đã giải quyết việc làm mới cho 24.850 lao động, đạt 103,5% kế hoạch năm. Tổ chức thành công tháng việc làm với chủ trương hướng về cơ sở. Giải quyết cho vay 130 dự án từ nguồn vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm, với số tiền 12,5 tỷ đồng. Việc thực hiện chương trình giải quyết việc làm, giảm nghèo lồng ghép với các chương trình kinh tế khác đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống còn ở mức 5% và tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 81%.  Xuất khẩu lao động tuy có cố gắng với 140 trường hợp lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng chưa thực sự mạnh mẽ, một phần người lao động nhận thức chưa đầy đủ về xuất khẩu lao động, mặt khác trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ còn yếu cũng là một trong những rào cản lớn trong xuất khẩu lao động.

 

Công tác đào tạo nghề có nhiều tiến bộ, đã thành lập mới 4 trung tâm dạy nghề ở cấp huyện, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 16,7%. Chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, miền núi, đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp vẫn chưa được khắc phục hiệu quả.

 

Đã  huy động nhiều nguồn lực xã hội thực hiện công tác giảm nghèo, trong năm 2006 có thêm 4.200 hộ thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 16,7%. Tiếp tục hỗ trợ xây dựng 1.884 nhà ở cho hộ nghèo, đạt 94,2% kế hoạch. Cấp bổ sung 55.390 thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Công tác giảm nghèo đã mang lại hiệu quả thiết thực, nhưng chưa thật bền vững,  một số ngành, địa phương phối hợp chưa đồng bộ trong công tác này.

 

Chế độ, chính sách đối với người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Đã xét duyệt 2.612 hồ sơ chính sách.  Hỗ trợ xây dựng, sửa chữa 126 nhà tình nghĩa. Nuôi dưỡng 202 đối tượng có công tại trung tâm và điều dưỡng tại gia đình cho 1.770 người. Tổ chức chu đáo việc thăm hỏi, tặng quà đối tượng chính sách nhân dịp Tết Nguyên đán và ngày thương binh liệt sỹ. Các nghĩa trang liệt sỹ, nhà bia ghi tên liệt sĩ được tu sửa khang trang. Tiếp tục huy động quỹ đền ơn, đáp nghĩa được trên 1,3 tỷ đồng.

 

6. Hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao ngày càng phát triển cả chiều rộng và từng bước đi vào chiều sâu, hướng về cơ sở. Đã tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, đáng chú ý như lễ hội kỷ niệm 395 năm Phú Yên, ngày hội văn hóa các dân tộc miền Trung, Tây Nguyên. Các cơ quan thông tin đại chúng đã bám sát Nghị quyết, chương trình của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh để tuyên truyền và thông tin kịp thời tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh, phát huy tốt vai trò trong tuyên truyền đại hội Đảng các cấp, đồng thời phát hiện tiêu cực, góp phần giúp các cơ quan chức năng giải quyết ổn định tình hình kinh tế-xã hội. Đã hoàn chỉnh 5 hồ sơ, đề nghị Bộ Văn hóa TT công nhận, xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, toàn tỉnh có 151.386 gia đình đạt chuẩn “ gia đình văn hóa” đạt 76,2% số hộ toàn tỉnh và 395 thôn buôn khu phố văn hóa.  Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa được tăng cường hơn, tiếp tục chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường.

- Công tác xã hội hóa hoạt động thể dục thể thao được thực hiện khá tốt, đã huy động được nguồn lực xã hội đầu tư cho thể dục thể thao, điển hình như câu lạc bộ Phù Đổng và các Câu lạc bộ võ thuật ở các địa phương. Đã  tổ chức Đại hội thể dục thể thao ở cơ sở và tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh lần thứ  IV. Tổ chức 20 giải thể thao cấp tỉnh, 94 giải thể thao cấp huyện và 390 giải ở cấp xã, phường. Kết quả thi đấu tại các giải khu vực và toàn quốc đạt khá với 41 huy chương các loại, trong đó 05 HC vàng. Qua kết quả đạt được  trong năm qua cho thấy phong trào thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở phát triển mạnh, nhất là các hoạt động đi bộ, thể dục dưỡng sinh, thể dục thẩm mỹ, nhưng các bộ môn thể thao thành tích cao, nhất là bộ môn bóng đá, bóng chuyền vẫn còn hạn chế.  

 

III. Quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, chính trị xã hội ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội:

 

 - Đã tập trung lực lượng bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và các hoạt động lễ, hội. Giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp về an ninh trật tự mới phát sinh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số 2 huyện miền núi Sông Hinh, Sơn Hoà và vụ gây rối trật tự công cộng tại huyện Tuy An. Qua các vụ việc này cũng cho thấy, khả năng vận động quần chúng còn hạn chế, việc nắm tình hình và giải quyết vụ việc phát sinh từ cơ sở còn yếu, làm phát sinh phức tạp, điểm nóng. Phạm pháp hình sự có chiều hướng gia tăng với 395 vụ (tăng 13 vụ so năm trước), trong đó trọng án 50 vụ (giảm 05 vụ); đã điều tra làm rõ 288 vụ, đạt 72,9%. Tập trung triển khai quyết liệt các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông, tuy nhiên tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, toàn tỉnh  xảy ra 164 vụ ( tăng 03 vụ so năm trước), làm chết 152 người (tăng 03 người), bị thương 148 người (tăng 32 người). 

 

- Triển khai tương đối toàn diện công tác quân sự, quốc phòng với chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện cho các lực lượng. Tổ chức thành công diễn tập vận hành cơ chế  theo Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị ở cấp tỉnh, được Bộ Tư lệnh Quân khu V đánh giá đạt tốt. Hoàn thành tốt giao quân năm 2006, đạt 100% chỉ tiêu trên giao, có chất lượng. Triển khai công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và giáo dục quốc phòng cho các đối tượng, ở các cấp có hiệu quả được Hội đồng giáo dục quốc phòng Trung ương kiểm tra đánh giá đạt tốt. Công tác bảo vệ an ninh vùng biển được tăng cường. Tiếp tục thúc đẩy xây dựng các công trình quốc phòng đảm bảo tiến độ.

 

IV. Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố và kiện toàn sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, gắn với tập trung cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc.  

 

Tập trung thực hiện sắp xếp củng cố tổ chức bộ máy và cán bộ sau Đại hội Đảng các cấp để đảm bảo hoạt động ổn định. Đã hoàn chỉnh thủ tục, trình kỳ họp thứ 6-HĐND tỉnh khóa V và Chính phủ về việc miễn nhiệm và bầu chức danh Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên (nhiệm kỳ 2004-2009); phê chuẩn kết quả bầu bổ sung 03 Chủ tịch UBND các huyện: Đồng Xuân, Sông Hinh, Tuy An. Thực hiện khá tốt công tác địa giới hành chính. Đã xây dựng đề án quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh đến năm 2020 báo cáo Bộ Nội vụ. Tổ chức bàn giao buôn Ma Giai thuộc xã Phước Tân, huyện Sơn Hoà cho xã Đất Bằng, huyện Krông pa, tỉnh Gia Lai quản lý. Khảo sát thực địa, xác định các cột mốc địa giới hành chính để bổ sung, chỉnh sửa bộ hồ sơ, bản đồ và cắm mốc ĐGHC các đơn vị mới chia tách thành lập.

 

Công tác tổ chức, bộ máy, biên chế được thực hiện đúng quy trình. Đã ban hành quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thuộc UBND tỉnh quản lý. Thành lập mới 04 phòng chuyên môn thuộc các Sở, ngành  và 40 tổ tư vấn giúp việc cho UBND tỉnh. Bổ sung 242 chỉ tiêu biên chế cho các đơn vị, địa phương. Thực hiện đầy đủ, kịp thời tiền lương và chế độ cho cán bộ công chức. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC, nhất là ở cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới. Qua thanh tra công tác tổ chức nhà nước ở 4 đơn vị đều thực hiện khá tốt quy định của Trung ương và tỉnh.

 

Tập trung cao trong chỉ đạo cải cách hành chính, gắn với phát huy dân chủ, đã tạo điều kiện cho công dân, công chức viên chức tham gia vào xây dựng chính quyền, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Đến nay đã phê duyệt và triển khai thực hiện Đề án cải cách theo cơ chế ‘‘một cửa’’ ở 26 đơn vị sở, ngành, 09 huyện, thành phố và 106 xã, phường, thị trấn. Triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 tại Văn phòng UBND tỉnh và Sở Nội vụ, chuẩn bị đánh giá công nhận chính thức. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực như: cấp phép xây dựng, cấp GCN quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất; giấy đăng ký kinh doanh, đăng ký hộ khẩu…đã có những chuyển biến tích cực, góp phần giảm bớt phiền hà cho tổ chức, công dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số thủ tục trong lĩnh vực xây dựng cơ bản vẫn còn phức tạp.

 

Công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh có hiệu quả hơn. Đã ban hành quy chế làm việc của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2009, phân công trách nhiệm của các thành viên UBND tỉnh, quy định quan hệ công tác giữa các ngành các cấp rõ ràng; quy trình giải quyết công việc thường xuyên của Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh, thủ tục tiếp nhận, trình, ban hành văn bản của UBND tỉnh cụ thể. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong chỉ đạo điều hành; kết hợp vai trò tập thể qua thảo luận quyết định các vấn đề quan trọng như: tổ chức cán bộ, quy hoạch kế hoạch, thông qua các dự án lớn,...với đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch, các Phó Chủ tịch trong điều hành lĩnh vực được phân công.  Đối với các chương trình, dự án lớn đều phân công cụ thể Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, thành viên UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo và đôn đốc. Những vấn đề trọng tâm, trọng điểm và bức xúc được tập trung nhiều hơn và có sự ưu tiên trong giải quyết công việc. Duy trì thường xuyên giao ban với các Sở, ban ngành và hội ý Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh và Văn phòng UBND tỉnh để kịp thời giải quyết các vấn đề tồn tại cũng như vướng mắc mới phát sinh. Tiếp tục cải tiến nội dung các cuộc họp và dành nhiều thời gian xuống cơ sở, trực tiếp kiểm tra nắm tình hình và chỉ đạo xử lý kịp thời một số vướng mắc. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo điều hành còn một số hạn chế như: việc giải quyết công việc của UBND tỉnh đôi lúc còn sa vào sự vụ, chưa có sự chuyển biến đáng kể trong việc giảm số lượng và nâng cao chất lượng các cuộc họp; công tác kiểm tra đôn đốc các ngành, các cấp trong việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh có lúc chưa tốt, nên việc tổ chức thực hiện chưa mang lại hiệu quả cao.

 

Nhiều  sở, ngành chuyên môn đã  tham mưu phục vụ đắc lực cho UBND tỉnh chỉ đạo điều hành kinh tế- xã hội. Bên cạnh đó, vẫn còn một số sở, ngành, địa phương vi phạm Quy chế làm việc của UBND tỉnh, thực hiện chưa nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh trong thông tin báo cáo; có trường hợp tuy bảo đảm đúng thời gian, nhưng chất lượng tham mưu trong một số lĩnh vực, một số trường hợp còn hạn chế. Thậm chí có tình trạng đùn đẩy công việc cho nhau, ảnh hưởng đến chỉ đạo điều hành chung của UBND tỉnh. 

 

V. Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục pháp luật, duy trì tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và chỉ đạo mạnh mẽ công tác thanh tra đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí.   

 

Đã tổ chức quán triệt sâu rộng Nghị quyết Trung ương 3 và chương trình hành động của Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; phổ biến Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và ban hành chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện 2 luật trên. Ngoài ra, tổ chức tập huấn triển khai các văn bản pháp luật mới như: luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, luật Đấu thầu, luật Bảo vệ môi trường… Thủ tục công chứng, chứng thực được cải tiến theo hướng đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi hơn cho tổ chức công dân. Công tác hoà giải ở cơ sở  được chú trọng, đã hoà giải thành 355/464 vụ việc tranh chấp. Thi hành án dân sự xong 2.711 vụ việc, đạt 68% án có điều kiện thi hành.

 

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo  được thực hiện nghiêm túc. Đã tiếp 251 lượt công dân, giảm 48,3% so năm trước; tiếp nhận 1.560 đơn khiếu nại, tố cáo, tăng 37,9%  (gồm 1465 đơn khiếu nại và 95 đơn tố cáo). Đã xem xét giải quyết 820/886 đơn  thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 92,5%; trong đó giải quyết 25/30 vụ việc thuộc thẩm quyền Chủ tịch UBND tỉnh.

 

- Thực hiện thanh tra, kiểm tra thường xuyên trong các lĩnh vực theo kế hoạch, trong đó tập trung thanh tra, kiểm tra về tham nhũng, lãng phí. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành chức năng theo dõi, đôn đốc xử lý sau thanh tra. Chỉ đạo xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm, kể cả cán bộ có chức, có quyền, có tác dụng giáo dục. Triển khai  77 cuộc thanh tra, đã kết thúc 49 cuộc; thu hồi về ngân sách trên 23,7 tỷ đồng và xử lý kỷ luật  27 CBCC. Một số vụ án tham nhũng đã được đưa ra xử lý nghiêm minh. Đang điều tra để đưa ra truy tố 05 vụ án tham nhũng khác; trong đó kết thúc điều tra, đã đưa ra truy tố 13 bị can vụ án kè Bạch Đằng.

 

VI. Phát động phong trào thi đua yêu nước sôi nổi chào mừng thành công Đại hội Đảng các cấp và các ngày lễ lớn, qua đó đã phát hiện nhiều gương điển hình tiên tiến, nhiều tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc, đóng góp tích cực hoàn thành kế hoạch kinh tế-xã hội tỉnh năm 2006.

 

Đã kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác thi đua khen thưởng từ tỉnh đến cơ sở.  Tổ chức 02 cụm thi đua của 09 huyện, thành phố và 07 khối thi đua của các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, để chủ động theo dõi, tổ chức phong trào thi đua. UBND tỉnh đã tặng bằng khen cho 392 tập thể, 656 cá nhân và tặng cờ thi đua xuất sắc cho 38 đơn vị đã có thành tích xuất sắc thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, ANQP năm 2005. Ngoài ra,  kịp thời khen thưởng cho 382  tập thể, 324 cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua; khen thưởng thành tích cho cán bộ, giáo viên ngành giáo dục năm học 2005-2006 và khen thưởng đột xuất khác. Hoàn chỉnh 2.157 hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng kỷ niệm chương cho cán bộ, nhân dân bị tù đày trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ghi nhận thành tích của một số tập thể và cá nhân của tỉnh Phú Yên; Chủ tịch nước đã khen thưởng Huân chương độc lập hạng ba cho 04 tập thể, HCLĐ hạng nhì cho 01 tập thể, 01 cá nhân; HCLĐ hạng ba cho 17 tập thể và 07 cá nhân; Thủ tướng Chính phủ tặng cờ thi đua cho 21 tập thể và bằng khen cho 27 cá nhân.

 

ĐÁNH GIÁ CHUNG

 

Có thể nói năm 2006 là năm đầu tiên triển khai kế hoạch 5 năm (2006-2010) và cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện lớn của đất nước và của tỉnh. Ngoài việc chỉ đạo điều hành kinh tế-xã hội theo kế hoạch, còn phối hợp chuẩn bị và phục vụ cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Sau Đại hội, tập trung kiện toàn củng cố bộ máy tổ chức, xây dựng chính quyền các cấp và tập trung xử lý các vấn đề tồn tại, vướng mắc phát sinh, ổn định hoạt động của các Sở, ban, ngành, địa phương.

 

Tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh năm 2006 vẫn tiếp tục ổn định và có nhiều mặt phát triển khá. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, giảm dần giá trị sản xuất nông-lâm- thuỷ sản trong cơ cấu GDP. Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao chuyển biến tích cực. Công tác giảm nghèo mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đối tượng chính sách được tỉnh đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt.  An ninh chính trị được giữ vững, quốc phòng được củng cố. Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường. Bộ máy hành chính của tỉnh đã có sự chuyển biến bước đầu, chất lượng và hiệu quả hoạt động có nâng cao hơn. Việc đơn giản hóa, công khai hóa các quy trình, thủ tục hành chính đã tạo thuận lợi nhiều hơn cho người dân và doanh nghiệp.

 

Đạt được những thành tựu như trên là nhờ có sự đoàn kết, nhất trí của toàn hệ thống chính trị,  trong đó phải kể đến sự chỉ đạo, giúp đỡ của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, giám sát của HĐND tỉnh và phối hợp chặt chẽ của Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh, của các Đoàn thể và nỗ lực lớn của UBND tỉnh trong chỉ đạo điều hành. Tỉnh đã chủ động và có nhiều sáng tạo trong việc thực hiện lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng làm nền tảng vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

 

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong năm 2006, cũng phải nhìn nhận một cách nghiêm túc về một số tồn tại, yếu kém như đã phân tích trong từng lĩnh vực ở trên. Đây không phải là những vấn đề mới, nhưng việc khắc phục còn chậm, chưa có sự chuyển biến rõ nét. Nguyên nhân chủ yếu là do :

 

- Quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập, nhất là trong công tác xây dựng quy hoạch, công tác định hướng phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài. Tiếp cận, nắm bắt thông tin, xử lý thông tin còn nhiều bất cập. Tiềm năng kinh tế của tỉnh thì có, nhưng việc xây dựng cơ chế, chính sách, giải pháp để khai thác tiềm năng, thu hút vốn đầu tư còn yếu và chưa theo kịp với thực tế. Công tác kiểm tra, giám sát còn yếu, đôi lúc chưa nắm bắt kịp thời những vướng mắc phát sinh để chỉ đạo chấn chỉnh kịp thời.

 

- Công tác tự thanh tra, kiểm tra của Thủ trưởng các ngành, các cấp đôi lúc chưa thường xuyên, do đó chưa có biện pháp phòng ngừa những sai sót trong quản lý và xử lý một số vụ việc sai phạm. Quy chế dân chủ cơ sở, ở cơ quan, doanh nghiệp có lúc, có nơi chưa được phát huy một cách đầy đủ, còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Ý thức làm chủ của một bộ phận dân cư chưa cao, năng lực kiểm tra, giám sát còn hạn chế.

 

- Ý thức về công tác cải cách hành chính của một bộ phận cán bộ công chức chưa chuyển biến tích cực, không có sự thay  đổi đáng kể trong lề lối và tác phong làm việc.

 

PHẦN THỨ HAI

 

Nhiệm vụ kế hoạch và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội  năm 2007.

 

A. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:

 

I. Thuận lợi và cơ hội:

 

- Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới  (WTO) sẽ làm cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hóa thương mại được đẩy nhanh, tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và thu hút đầu tư, tăng khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây  vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với kinh tế của nước ta nói chung và tỉnh ta nói riêng.

 

- Nền kinh tế tỉnh ta trong những năm qua có bước tăng trưởng khá cao. Nhiều chủ trương, chính sách của Trung ương, của tỉnh đã đi vào cuộc sống và tiếp tục phát huy tác dụng tích cực. Một số cơ sở hạ tầng quan trọng của tỉnh, của các doanh nghiệp, của trung ương đầu tư trên địa bàn tỉnh đã và sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng…cũng sẽ tạo thêm nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

 

 II. Khó khăn và thách thức:

 

- Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế còn hạn chế, tỉnh chưa có những nguồn thu lớn và ổn định, vốn dành cho đầu tư phát triển không đáp ứng được yêu cầu, lại phải bố trí một phần để trả các khoản nợ vay đầu tư đến hạn. Mặt khác, biến động của giá cả thị trường, dịch cúm gia cầm, thiên tai…luôn là những nguy cơ tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. 

 

- Vấn đề việc làm vẫn còn nhiều bức xúc. Đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý giỏi, lao động có trình độ kỹ thuật cao vẫn còn thiếu, đây là thách thức lớn cho công cuộc phát triển sắp đến.

 

B.  CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU NĂM 2007: 

 

* Chỉ tiêu về kinh tế:    

           

-Tốc độ tăng GDP:                                 12,5-13%

Trong đó: Nông- lâm- thuỷ sản  tăng        3-3,5%

Công nghiệp -Xây dựng tăng                   18-19%

Dịch vụ tăng                                          13-13,5%

-Sản lượng lương thực có hạt                300.000 tấn

-Tổng kim ngạch XK hàng địa phương     80 triệu USD

-Thu ngân sách trên địa bàn                    687 tỷ đồng

-Tổng mức đầu tư phát triển       3.400-3.600 tỷ đồng.

* Chỉ tiêu về xã hội:

- Mức giảm sinh                                                0,5%o

- Mức giảm trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi  2-2,2%   

- Giải quyết việc làm                          25.000 lao động

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ                     2-2,5%.

 

C. CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI  PHÁP CỤ THỂ:

 

 I. Tận dụng các cơ hội và điều kiện thuận lợi khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới và hạn chế thấp nhất tiêu cực trong quá trình hội nhập để phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.  Đồng thời bằng mọi cách phải khắc phục những hạn chế tồn tại trong những năm qua, chủ động, sáng tạo và kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh để đạt được kết quả cao hơn và bền vững hơn.  

 

1. Tập trung tạo sự chuyển dịch mạnh trong cơ cấu ngành nông- lâm- thuỷ sản. Triển khai kế hoạch thực hiện chương trình hành động của Tỉnh uỷ về chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả cây trồng, vật nuôi giai đoạn 2006-2010. Tăng tỷ trọng chăn nuôi, dịch vụ trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi, sử dụng một số giống lúa mới có chất lượng, khả năng kháng sâu bệnh cao, sản xuất sản phẩm có chất lượng để xuất khẩu. Đầu tư thâm canh tăng năng suất cây công nghiệp; từng bước phát triển các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung chất lượng cao, an toàn, gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản để nâng cao giá trị sản phẩm. Mở rộng diện tích trồng cây điều, cây cao su ở những vùng đất hoang hóa, đất nương rẫy kém hiệu quả. Quản lý tốt vùng nguyên liệu mía, sắn, đảm bảo cho các nhà máy trên địa bàn hoạt động có hiệu quả.

 

Khôi phục và phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, hiệu quả, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Tăng cường hơn nữa các biện pháp phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi. Áp dụng các biện pháp đồng bộ, ngăn chặn bệnh lở mồm long móng tái phát lây lan trên diện rộng và dịch cúm gia cầm xảy ra trên địa bàn. Phát triển các mô hình chăn nuôi bò thịt, heo hướng nạc, chủ động nguồn thức ăn và quản lý chặt chẽ về thú y. Giảm dần số lượng và  nâng cao chất lượng đàn gia cầm.

 

Hoàn thành việc rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng, gắn với thực hiện chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển trồng rừng và tăng thu nhập từ rừng. Xử lý kiên quyết và có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và chống người thi hành công vụ bảo vệ rừng.

 

- Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản. Trên cơ sở quy hoạch, dự báo ngư trường để tổ chức, sắp xếp lại nghề đánh bắt trên biển cho hợp lý và có hiệu quả. Quản lý chặt chẽ việc đóng mới, đăng ký, đăng kiểm tàu cá, cấp giấy phép khai thác. Tổ chức lại tàu thuyền, nhất là trang bị phương tiện thông tin liên lạc, để vừa khai thác có hiệu quả, vừa đảm bảo an toàn trên biển. Khuyến khích phát triển mô hình tổ tàu thuyền an toàn.

 

Tiếp tục rà soát bổ sung quy hoạch và xây dựng mới quy hoạch chi tiết các vùng nuôi tập trung, quy hoạch phát triển một số vùng nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu. Ngăn chặn tình trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản tự phát, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Tập trung chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản theo hướng đa dạng hóa đối tượng nuôi, nuôi hiệu quả và bền vững trên cả 3 vùng nước (mặn, lợ, ngọt). Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao giống có chất lượng, chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng cho nông dân. Khuyến khích đầu tư chế biến và xuất khẩu thuỷ sản gắn với phát triển nuôi trồng thuỷ sản.   

 

- Tập trung xây dựng kế hoạch và triển khai các biện pháp chủ động phòng chống thiên tai ngay từ đầu năm. Tiếp tục kiểm tra, cứu trợ kịp thời cho nhân dân vùng ảnh hưởng lũ lụt. Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai; điểm tránh, trú bão cho tàu thuyền và các khu tái định cư để di dời dân khỏi khu vực nguy hiểm. Tích nước các hồ đập, điều tiết nước hợp lý đảm bảo sản xuất khi hạn hán xảy ra.   

 

- Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển kinh tế. Khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế, các ngân hàng, tổ chức tín dụng cung ứng vốn và đầu tư phát triển sản xuất vùng nông thôn. Đẩy nhanh chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đảm bảo chất lượng. Gắn việc hình thành các khu đô thị mới ở nông thôn với xây dựng nếp sống văn hóa và bài trừ tệ nạn xã hội.

 

2. Rà soát, bổ sung chính sách khuyến khích đầu tư cho phù hợp, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất công nghiệp-TTCN nhằm duy trì và phát triển công nghiệp với tốc độ cao và ổn định. Triển khai tốt kế hoạch của UBND tỉnh thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh uỷ về phát triển công nghiệp-TTCN giai đoạn 2006-2010. Tập trung phát triển công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ và bảo vệ môi trường. Phát triển công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản, coi đây là mặt hàng chủ lực hướng đến xuất khẩu; đồng thời thu hút đầu tư phát triển công nghiệp nặng. Thực hiện tốt Quyết định 80 ngày 26/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng đáp ứng nhu cầu sản xuất.  Tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án công nghiệp sớm đưa vào hoạt động; thúc đẩy mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị và phát huy hiệu quả một số dự án quan trọng như: nhà máy sản xuất ô tô JRD, nhà máy phân bón NPK, nâng công suất nhà máy bia Sài Gòn- Phú Yên…Củng cố và phát triển các làng nghề, hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm thị trường, nhằm tạo động lực thúc đẩy ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp của tỉnh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, kể cả đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đầu tư lưới điện cho các thôn, buôn còn lại và triển khai có hiệu quả dự án năng lượng nông thôn RE 2. Phối hợp chủ đầu tư thúc đẩy tiến độ các dự án thủy điện trên địa bàn. 

 

3. Mở rộng quy mô và chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, khuyến khích phát triển các dịch vụ mới. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển thương mại, dịch vụ. Triển khai có hiệu quả chương trình hợp tác phát triển thương mại, du lịch đã ký kết với các tỉnh. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu và hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia các hoạt động tìm kiếm, mở rộng thị trường. Tăng cường mạng lưới bán lẻ đến từng khu dân cư; đảm bảo các mặt hàng thiết yếu phục vụ miền núi. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng đã qua chế biến. Ngoài các mặt hàng chủ lực hiện có, phát triển mặt hàng mới, nhằm đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và tìm kiếm, mở rộng thị trường.

 

Tập trung đầu tư phát triển du lịch, khai thác tối đa lợi thế để đa dạng hóa các loại hình du lịch. Đầu tư tôn tạo các điểm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, phục vụ du lịch, tạo độc đáo riêng để thu hút du khách. Chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý và nhân viên từng bước chuyên nghiệp. Phát triển mạnh hơn nữa một số ngành dịch vụ như: bưu chính viễn thông, vận tải công cộng, dịch vụ cảng biển…gắn với đẩy mạnh vai trò quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực này. Chủ động làm việc ngành hàng không thúc đẩy tăng thêm tuyến bay, tần suất bay đi và đến sân bay Tuy Hoà. Phát triển các dịch vụ pháp luật, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, dịch vụ việc làm…

 

Hiện đại hóa và phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Các ngân hàng, các quỹ  có giải pháp mở rộng hình thức huy động vốn.  Tiếp tục cải tiến thủ tục cho vay, chủ động tìm kiếm dự án có hiệu quả để cho vay. Nâng dần tỷ trọng vốn tín dụng trung dài hạn. Tăng trưởng tín dụng đối với ngân hàng chính sách xã hội, giảm thấp nợ quá hạn phát sinh. Nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt và các dịch vụ ngân hàng. Phát huy vai trò thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước để thực hiện tốt các chính sách  tín dụng, lãi suất, tỷ giá…

 

4. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích thu hút mạnh đầu tư, đồng thời tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng, nâng cao hiệu quả đầu tư.

 

- Tập trung hoàn chỉnh quy hoạch vùng, quy hoạch ngành quan trọng, sản phẩm chủ yếu, đồng thời công bố rộng rãi các quy hoạch, khắc phục tình trạng phát triển không có quy hoạch, sai quy hoạch hoặc quy hoạch không khả thi. Triển khai lập quy hoạch xây dựng khu kinh tế Nam Phú Yên. Công bố công khai và triển khai thực hiện đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP Tuy Hoà đến năm 2025 và thiết kế quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Nam thành phố Tuy Hoà, đồng thời  quản lý chặt chẽ quy hoạch xây dựng, đảm bảo mỹ quan đô thị. Công bố quy hoạch  ngành công nghiệp đã hiệu chỉnh, bổ sung đến năm 2010 và định hướng đến 2020, để thu hút đầu tư đúng định hướng, khai thác tốt những tiềm năng, lợi thế của tỉnh.

 

Quản lý  chặt chẽ trật tự xây dựng đô thị, ngăn chặn và xử lý kịp thời tình trạng xây dựng  trái phép. Triển khai thực hiện tốt Luật nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành, đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và công trình xây dựng. Tạo điều kiện phát triển nhà ở cho đối tượng có thu nhập thấp, xử lý tồn tại các dự án khu dân cư phố mới.  

 

 - Tiếp tục hoàn thiện các quy định trong quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh theo hướng phân cấp, giao quyền và trách nhiệm đầy đủ cho chủ đầu tư và người ra quyết định đầu tư. Triển khai tốt kế hoạch thực hiện chương trình hành động của Tỉnh uỷ về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng giai đoạn (2006-2010). Tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, nhất là trong thẩm định, phê duyệt dự án, giao đất, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Rà soát các cơ chế, chính sách đã ban hành và bổ sung sửa đổi những quy định không còn phù hợp. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các quy định về xây dựng cơ bản gắn với cải tiến mạnh thủ tục XDCB, đảm bảo chất lượng công trình, hạn chế thấp nhất thất thoát trong xây dựng cơ bản. Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn. Ưu tiên bố trí vốn trả nợ XDCB các năm trước và chỉ đạo hoàn thành các dự án chuyển tiếp; chỉ triển khai những dự án mới thật sự cấp thiết và quan trọng nhưng phải đảm bảo chuẩn bị đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định.

 

Tích cực làm việc với các Bộ ngành trung ương thúc đẩy đầu tư các dự án lớn có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh gắn với phát triển kinh tế vùng. Tiếp tục tập trung tuyến giao thông động lực Nam thành phố Tuy Hoà, trục giao thông dọc miền Tây và một số công trình trọng điểm khác của tỉnh, nhất là cầu Hùng Vương, cầu La Hai, bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh, tuyến đường Độc Lập- Long Thuỷ, Long Thuỷ-Gành Đá Dĩa, hoàn thành dự án cảng Vũng Rô, kè Bạch Đằng, chỉnh trị cửa sông Đà Nông… Cải tạo, nâng cấp các công trình thuỷ lợi thiết yếu, các công trình hạ tầng thuỷ sản, phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Quan tâm đầu tư cho giáo dục- đào tạo, y tế, thể dục thể thao, khoa học công nghệ…Nghiên cứu xây dựng các dự án tranh thủ các nguồn vốn đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị như cấp nước, thoát nước và xử lý rác thải, vệ sinh môi trường đô thị và các khu, cụm điểm công nghiệp. Triển khai thực hiện tốt Chương trình 134 và giai đoạn 2 chương trình 135 trên địa bàn miền núi.

 

5. Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, để có nguồn thu ổn định và bền vững. Tiếp tục huy động nguồn thu từ quỹ đất đầu tư cơ sở hạ tầng, bố trí kinh phí hợp lý để đầu tư phát triển quỹ đất. Bên cạnh đó, kiểm soát chặt chẽ việc quản lý sử dụng ngân sách, triệt để tiết kiệm chi, tránh lãng phí. Khuyến khích thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng để tập trung vốn cho đầu tư, phát triển. Ưu tiên bố trí kinh phí trả nợ vay xây dựng cơ bản đã đến hạn.   

 

6. Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động và phát triển trong cơ chế thị trường. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong đào tạo cán bộ quản trị, đào tạo nghề cho lao động, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp. Hỗ trợ xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chống hàng giả. Tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, được tiếp cận bình đẳng về nhu cầu sử dụng đất và các nguồn vốn. Rà soát lại các loại giấy phép, các quy định về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, thủ tục về đất đai, thẩm định phê duyệt dự án…để loại bỏ những thủ tục phiền hà, gây chậm trễ, ách tắc trong hoạt động của doanh nghiệp.

 

Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp cổ phần và các loại hình kinh tế dân doanh. Hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Thúc đẩy phát triển các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự nguyện, nhất là ở khu vực nông thôn. Thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào địa bàn tỉnh.

 

7. Tăng cường hơn nữa quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường. Triển khai thực hiện tốt các quy định mới về đất đai, đẩy mạnh việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất trồng lúa 2 vụ sang mục đích khác. Tiếp tục có hỗ trợ thích hợp cho người dân ở những nơi nhà nước thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống, trong đó thực hiện tốt các dự án tái định cư. Chú trọng việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác thanh kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất đai, xử lý nghiêm tình trạng sử dụng sai mục đích, lấn chiếm, chuyển nhượng đất trái phép. Quản lý chặt chẽ việc khai thác tài nguyên khoáng sản và tài nguyên nước, ngăn chặn khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên.  

 

Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường, gắn với việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm theo nguyên tắc người nào gây ô nhiễm môi trường  người đó phải có trách nhiệm xử lý hoặc chi trả kinh phí cho việc xử lý. Đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ môi trường ngay từ khi xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự án đầu tư, không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà để lại những hậu quả lâu dài về môi trường. Khuyến khích phát triển các dịch vụ về tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải và khuyến khích các loại hình sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường.     

 

II.  Tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết 05 của Chính phủ về xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục đào tạo, Y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội:

 

1. Tập trung chỉ đạo đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục. Mở rộng quy mô giáo dục trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo. Quan tâm phát triển giáo dục ở những vùng khó khăn. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đồng thời phát huy khả năng sáng tạo và tư duy độc lập của học sinh, sinh viên; đẩy mạnh việc phân luồng đào tạo sau THCS. Vận động toàn xã hội cùng với nhà trường thực hiện có hiệu quả “ cuộc vận động nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”. Quản lý chặt chẽ các hoạt động học thêm, dạy thêm. Hoàn thành các thủ tục, thành lập và đưa vào hoạt động trường Đại học Phú Yên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các trường Cao đẳng, THCN, trường dạy nghề và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề ở các huyện, thành phố nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô đào tạo. Công tác đào tạo phải hướng mạnh hơn vào mục đích phục vụ thiết thực cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. Triển khai Đề án xã hội hóa giáo dục đến năm 2010, chuyển một số trường bán công sang dân lập hoặc tư thục. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các cơ sở công lập, thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập, phát huy hiệu quả của các trung tâm giáo dục cộng đồng. Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị trường học theo hướng kiên cố, hiện đại.

 

2. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản phẩm khoa học công nghệ, tạo bước chuyển nhanh hơn về năng suất chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế. Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa khoa học công nghệ với giáo dục đào tạo, giữa nghiên cứu, đào tạo với sản xuất kinh doanh. Đưa thông tin khoa học công nghệ về cơ sở. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học công nghệ, nhất là cơ chế tài chính theo hướng đấu thầu một số đề tài, nhằm gắn các hoạt động khoa học công nghệ với ứng dụng thực tế. Tập trung đầu tư vào các dự án nghiên cứu sản phẩm chủ lực, mũi nhọn và xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ của tỉnh trong một số lĩnh vực trọng điểm như nông-lâm-thuỷ sản, công nghiệp, … Chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý về khoa học công nghệ cấp huyện. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa. Chú trọng quản lý nhà nước về công nghệ và an toàn bức xạ. Tăng cường thanh tra đo lường, chất lượng hàng hóa, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của đời sống xã hội.

 

3. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, lấy chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân làm thước đo ngành y tế. Thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, kết hợp tốt giữa  quân-dân y ở địa bàn các xã miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Tăng cường kết hợp giữa y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Mở rộng hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cao trong chẩn đoán điều trị. Tăng cường nhân lực, trang thiết bị cho y tế, trong đó ưu tiên đầu tư cho y tế cơ sở và y tế tuyến huyện, nâng cao chất lượng  khám chữa bệnh, góp phần khắc phục sự quá tải ở bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh. Chú trọng đào tạo sau đại học cho y tế tuyến tỉnh và xây dựng đề án đào tạo bác sỹ cử tuyển hoặc hợp đồng đào tạo theo địa chỉ đối với các xã miền núi. Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hành nghề y dược tư nhân; huy động các phòng khám tư nhân vào khám bảo hiểm y tế cho nhân dân. Sắp xếp, bố trí cơ sở làm việc cho cơ quan y tế dự phòng tuyến huyện. Tăng cường hiệu quả hoạt động y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; kịp thời phát hiện, xử lý không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn, thực hiện đồng bộ các giải pháp để chủ động phòng chống dịch cúm A ( H5N1) ở người. Đẩy mạnh công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, triển khai tốt khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tăng cường kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở y tế.

 

4. Chỉ đạo quyết liệt hơn công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, đảm bảo đạt chỉ tiêu giảm sinh đề ra và nâng cao chất lượng dân số. Làm tốt công tác truyền thông dân số, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản/KHHGĐ. Tiếp tục vận động “ Xây dựng gia đình ít con, ấm no, hạnh phúc”. Thực hiện tốt các dự án giúp đỡ trẻ em. Tiếp tục đưa trẻ em lang thang về gia đình và hỗ trợ dạy nghề cho trẻ em.

 

5. Lồng ghép công tác giải quyết việc làm,  giảm nghèo với các chương trình phát triển kinh tế- xã hội của địa phương một cách có hiệu quả. Tập trung  chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ. Triển khai tốt kế hoạch thực hiện chương trình hành động của Tỉnh uỷ về phát triển nguồn nhân lực. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các loại hình doanh nghiệp, góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Ưu tiên đào tạo chuyển nghề và giải quyết việc làm cho dân bị thu hồi đất xây dựng các công trình. Tập trung xuất khẩu lao động, nâng cao tỷ lệ xuất khẩu lao động đã qua đào tạo. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm, tạo cầu nối cho người lao động với  các doanh nghiệp. Thanh tra kiểm tra thường xuyên việc thực hiện quy định của Bộ Luật lao động, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.

 

Đồng thời với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, tập huấn kiến thức để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo, phải huy động toàn xã hội tham gia vào công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt hơn chính sách giải quyết đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt, đào tạo nghề và việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo. Ngăn chặn và từng bước  đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

 

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công với nước. Vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho đối tượng chính sách. Trợ giúp thiết thực cho nạn nhân chất độc da cam, trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn. 6. Từng bước xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động theo hướng chuyên nghiệp.

 

- Phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững. Đề cao nếp sống và làm việc theo pháp luật trong mọi mặt của đời sống xã hội. Xây dựng và củng cố lối sống văn hóa trong cộng đồng dân cư, nhất là tầng lớp thanh, thiếu nhi. Cán bộ công chức phải là người gương mẫu trong xây dựng nếp sống văn hóa cả ở trong gia đình, tại cơ quan và ngoài xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các tài năng nghệ thuật, duy trì và phát triển các loại hình văn hóa dân tộc của tỉnh. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình, tuyên truyền, phổ biến kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đề cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan báo chí trong việc phát hiện và phê phán hành vi tham nhũng, tiêu cực; không thổi phồng và đưa tin sai sự thật, ảnh hưởng đến sự chỉ đạo điều hành của tỉnh. Tăng cường kiểm tra các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư gắn với đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.

 

- Tiếp tục phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, huấn luyện các đội tuyển thể thao thành tích cao. Có giải pháp để cải thiện thành tích thi đấu của các đội tuyển bóng đá, bóng chuyền của tỉnh. Đẩy mạnh giáo dục tư tưởng đạo đức, phòng chống tiêu cực trong thể thao.  Triển khai xây dựng Đề án thực hiện quyết định số 100 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển thể dục thể thao xã, phường, thị trấn đến năm 2010.

 

III. Tăng cường quốc phòng an ninh, chủ động và kiên quyết trong xử lý các tình huống, đảm bảo vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn:  

 

- Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về công tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới. Thường xuyên nâng cao cảnh giác, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, khủng bố của các thế lực thù địch. Giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh trật tự từ cơ sở, không để phát sinh các điểm nóng. Tập trung triển khai tốt các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm. Triển khai quyết liệt, đồng bộ, kiên trì các giải pháp để kiềm chế tai nạn giao thông, cố gắng giảm thấp nhất các tai nạn giao thông nghiêm trọng. 

 

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quân sự-quốc phòng. Triển khai thực hiện tốt Luật Quốc phòng. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện đủ tin cậy cho các lực lượng. Tiếp tục diễn tập quân sự theo cơ chế 02 của Bộ Chính trị ở  20% cấp huyện và 25% cấp xã, phường, thị trấn. Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng. Tăng cường bảo vệ an ninh vùng biển. Tiếp tục tổ chức các tổ tàu thuyền vừa khai thác hải sản vừa tham gia bảo vệ an ninh vùng biển. Tổ chức tốt giao quân năm 2007. Thúc đẩy các dự án quốc phòng đạt tiến độ. 

 

IV. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền các cấp, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở, ở các cơ quan, doanh nghiệp:

 

 Chuẩn bị và tổ chức thật tốt bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII. Chú trọng hơn nữa đến việc xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh toàn diện. Hoàn chỉnh việc chỉnh sửa, bổ sung bộ hồ sơ, bản đồ và cắm mốc địa giới hành chính các đơn vị hành chính cấp huyện, xã mới thành lập. Xây dựng đề án điều chỉnh, chia tách, thành lập mới các thôn, buôn, khu phố đến năm 2010. Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và lãnh đạo các sở, ngành, huyện, thành phố. Triển khai tốt các quy định của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập. Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ công chức, viên chức cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và cán bộ quản lý DNNN theo Quyết định số 1414 ngày 13/9/2006 của UBND tỉnh. 

 

Tập trung chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước (giai đoạn 2006-2010). Trong đó tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục hành chính, phân cấp mạnh hơn và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng cán bộ công chức và người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Tiếp tục thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”; công khai thủ tục hành chính và thông tin cần thiết khác để mọi người biết, thực hiện đúng và tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Chỉ đạo rà soát để kịp thời xóa bỏ những quy trình, thủ tục hành chính chồng chéo, phức tạp, gây phiền hà cho tổ chức, công dân, doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận, các Đoàn thể tham gia và giám sát công tác của chính quyền.

 

 Xây dựng và triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144 ngày 20/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Duy trì hoạt động trang thông tin điện tử của UBND tỉnh, từng bước hiện đại hóa nền hành chính của tỉnh. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao lý luận chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ; lấy hiệu quả công việc và phẩm chất đạo đức để làm thước đo đánh giá cán bộ công chức. Giải quyết đầy đủ, kịp thời tiền lương, chế độ chính sách đối với CBCC. Tổ chức chặt chẽ việc thanh tra, kiểm tra công vụ về công tác tổ chức nhà nước.

 

V. Tập trung nâng cao chất lượng công tác tư pháp, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại-tố cáo.

 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật sâu rộng, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức pháp luật trong cán bộ, nhân dân, góp phần tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi hoạt động tuân thủ quy định của pháp luật và phù hợp tình hình thực tế địa phương. Khắc phục một số tồn tại để triển khai thực hiện tốt hơn việc giám sát, giáo dục người phải thi hành án treo, cải tạo không giam giữ tại xã, phường, thị trấn theo Nghị định 60 và 61 của Chính phủ ngày 30/10/2000. Thực hiện tốt công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Đơn giản hóa thủ tục công chứng, chứng thực. Tập trung chỉ đạo công tác thi hành án dân sự, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các đương sự.

 

 Duy trì tốt công tác tiếp công dân; xem xét giải quyết khiếu nại-tố cáo; phải tăng cường đi công tác cơ sở để trực tiếp lắng nghe và đối thoại với dân, giải quyết có tình, có lý các vụ việc từ khi mới phát sinh, không để khiếu nại tồn đọng, kéo dài và khiếu nại đông người, vượt cấp gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.

 

Triển khai đồng bộ Nghị quyết Trung ương 3 và các luật, Nghị định của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đôn đốc, kiểm tra việc triển khai chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với quyết tâm làm kiên quyết, hiệu quả. Triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra có trọng tâm trọng điểm, tập trung trong các lĩnh vực về quản lý sử dụng đất đai, tài sản công, chi tiêu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, huy động và sử dụng các khoản đóng góp của dân, công tác cán bộ…làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân và xử lý nghiêm minh để có tác dụng giáo dục, răn đe; đồng thời xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng, tiêu cực. Chỉ đạo đưa ra xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai vụ án tham ô công trình kè Bạch Đằng.  

 

VI. Phát động phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh tế-xã hội tỉnh năm 2007; tổng kết khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc và nhân điển hình tiên tiến. Xây dựng và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng Thi đua khen thưởng tỉnh và các ngành, địa phương. Ban hành quy định Quỹ thi đua, khen thưởng của tỉnh theo Nghị định 121 ngày 30/9/2005 của Chính phủ. 

 

*

*       *

 

Những mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra cho năm 2007 là hết sức nặng nề, với trách nhiệm của mình UBND tỉnh sẽ nỗ lực tập trung chỉ đạo, điều hành, cố gắng hoàn thành trọng trách được giao; đồng thời đề nghị Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ; Mặt trận và các Đoàn thể nhân dân tham gia trong một số lĩnh vực công tác và thực hiện tốt công tác giám sát để cùng vượt qua khó khăn thách thức, hoàn thành thắng lợi kế hoạch đã đề ra.

 

 

 

 

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek