Lời giới thiệu: Cùng với “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, “Ðường Bác Hồ đi cứu nước” đã xuất bản và tái bản tới lần thứ 9, tiến sĩ, nhà báo, nhà văn Trình Quang Phú, một người con Phú Yên (Viện sĩ Viện Hàn lâm các vấn đề xã hội Cộng hòa Liên bang Nga, Viện trưởng Viện phát triển Phương đông, Ủy viên ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn đối ngoại và Việt kiều, Phó Chủ nhiệm TW Hội người Việt Nam ở nước ngoài…) đã dày công biên soạn những tác phẩm về Bác Hồ với sự giới thiệu cực kỳ trang trọng của đồng chí Phạm Văn Ðồng và Ðại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2011), Viện sĩ Trình Quang Phú là một trong những nhân vật được Ðài Truyền hình Việt Nam mời tham dự cầu truyền hình trực tiếp ở bến Nhà Rồng (TP Hồ Chí Minh) với tư cách là một trong những cây bút có những tác phẩm đặc sắc về Bác Hồ, Báo Phú Yên trân trọng trích đăng “Ðường Bác Hồ đi cứu nước”. (PHAN THANH BÌNH)
Tàu Amiral Latouche Tresville, nơi Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp khi rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước (5/6/1911). - Ảnh: T.LIỆU
Ngày 3/6/1911, Bác chính thức xuống tàu làm phụ bếp. Đây là một trong những tàu lớn hồi đó vừa chở hàng, vừa chở khách. Theo hồ sơ còn lưu ở bảo tàng hàng hải bên Pháp thì tàu dài 124,1 mét, rộng 15,2 mét, chạy máy hơi nước, 2.800 mã lực, với tốc độ 13 hải lý/giờ, trọng tải 5.572 tấn và có đủ nhiên liệu để chạy một mạch 12.000 hải lý. Trong hồ sơ lưu còn có sổ lương và sổ thủy thủ. Lương tháng 6/1911 của Bác là 50 phơ-răng Pháp, trong khi những người bồi Pháp làm việc rất nhàn nhã thì lương gấp ba lần lương của Bác.
Trưa ngày 5/6/1911, con tàu Amiral Latouche Tréville đã rời bến sông Sài Gòn với 72 thủy thủ có mặt trên tàu. Sài Gòn hôm đó đã thay mặt đất nước tiễn Bác. Trong chuyến hành trình đầu tiên đó Bác đến Sing-ga-po, Cô-lôm-bô,
Bác ra đi giữa mùa bão tố tháng sáu với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” có kể lại lúc Bác Hồ làm thủy thủ trên tàu như sau: Mỗi ngày anh Ba phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò. Khi thì đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt, cá, nước đá… Công việc khá nặng nhọc, lại gặp nhiệt độ luôn thay đổi vì dưới bếp rất nóng, còn trong hầm thì rất lạnh. Đôi khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang, trong khi tàu tròng trành lắc lư rất nguy hiểm.
Xong công việc ấy, phải dọn cho chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, lặt rau, rửa nồi, chảo và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo ăn cho cả bảy, tám trăm người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:
- Ba, đem nước đây!
- Ba, dọn chảo đi!
- Ba, thêm than vào!
Suốt ngày anh Ba người đẫm hơi nước và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong mọi việc. Và hơn nữa, anh còn phải gọt cho xong đống củ cải và khoai tây… Mỗi ngày, đến chín giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba học hay viết đến khuya…
Một lần dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên, đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba lên bếp lại xuống hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu tròng trành dữ quá, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi. Chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu, cả những rổ rau và anh Ba nữa. May là anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết!... (1)
Theo những bức thư của Bác gửi cho cụ Phó bảng thông qua nhà chức trách Anh còn lưu trong tài liệu mật thám Pháp thì 30/10/1911 Bác đã đến Cô-lôm-bô và ngày 15/12/1912 Người đến
Từ ngày 5/6/1911 ấy, Bác đã trải qua bao gian nan, cực khổ của các nghề “bồi” ở dưới tàu, “bồi” ở khách sạn, làm nghề rửa ảnh, vẽ sơn mài… và làm nghề cào tuyết cho một trường học để sống, để đi, để hiểu và hoạt động cách mạng. Tám năm sau, tháng 6/1919 Cảng sông Sài Gòn lại chuyển đến nhân dân Việt Nam 8 điều yêu sách của nhân dân Việt Nam mà Bác đã đại diện gởi đến Hội nghị Véc-xây, văn kiện đó như một quả bom nổ giữa thủ đô của nước chính quốc, nó là tiếng thét của hàng triệu người Việt Nam. Bác đã bỏ tiền ra để in tài liệu này gởi đi các nơi và gởi về Việt
Từ ngày 5/6/1911 ấy, Bác rời Sài Gòn và đã đi qua gần đủ năm châu, bốn biển trên thế giới và tìm ra con đường giải phóng dân tộc, để mùa xuân của 30 năm sau (tháng 2 năm 1941) Bác trở về Pắc Pó lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sau đó khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Và rồi 30/4/1975, con cháu Bác với chiến dịch mang tên Bác, với đường lối và tư tưởng quyết thắng của Bác đã tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền
Ý chí quyết tâm và lòng tin của Bác trước sau như một. Ngày Bác ra đi chỉ có hai bàn tay. Khi Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Tất nhiên hai bàn tay mà Bác nói đây là hai bàn tay của ngót 25 triệu đồng bào Việt
-------------------------
(1) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”
(2) Năm 1945 dân số Việt
TRÌNH QUANG PHÚ