Ðể chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước, ngày 19/5/1959, nhân kỷ niệm 69 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Trung ương Ðảng đã quyết định mở đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh. Ngày này cũng là ngày truyền thống của Bộ đội Trường Sơn (BÐTS).
Trung tá Trần Thành Chính (thứ 2, từ trái sang) cùng các chiến sĩ BĐTS năm xưa ôn lại kỷ niệm thời chống Mỹ trên đường Trường Sơn. - Ảnh: X.H
Trong 16 năm tồn tại (1959-1975), đường Trường Sơn đã hứng chịu hàng triệu tấn bom đạn, hàng chục vạn trận đánh phá của địch. Sự hy sinh của quân và dân ta để bảo đảm con đường huyết mạch chi viện sức người, sức của cho miền
Đã gần 40 năm xa con đường Trường Sơn huyền thoại, nay đã ngoài “thất thập cổ lai hy”, nhưng trung tá Trần Thành Chính, nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 142 (BĐTS) và những người lính Trường Sơn năm xưa may mắn vượt qua bom đạn vẫn nhớ sâu sắc về những năm tháng cùng Trường Sơn đánh Mỹ. Ông Chính kể: Quân số ban đầu tham gia làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí, thuốc men vào chiến trường miền Nam theo đường Trường Sơn là 500 cán bộ trung cấp, sơ cấp lấy từ cán bộ quân đội miền Nam tập kết ra Bắc của hai Sư đoàn 324 và 305 và một số anh em trẻ, khỏe ở các nông trường quân đội. Trong số này có một số là cán bộ
“Chiến công của Mặt trận Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng sinh động của sức mạnh đại đoàn kết, khát vọng chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta; đồng thời là biểu tượng của liên minh đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Chiến công đó là thắng lợi của công tác bảo đảm hậu cần chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là một bước phát triển sáng tạo về khoa học, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt
Do gùi thồ năng suất không cao, nên từ năm 1960 ta quyết định chuyển sang vận chuyển bằng xe đạp, gồm xe Thống Nhất của ta, xe Phượng Hoàng của Trung Quốc và xe Phavorit của Tiệp Khắc. Đến năm 1964, cơ cấu có nhiều thay đổi, Đoàn 559 tổ chức ngang tầm với Quân khu. Lúc này đường được mở rộng kéo dài từ đường 9 đến Bắc Tà Ngâu (Campuchia), qua các tỉnh bạn như Lào, Atopo, Sava Nakhet và Sa Ma Vanh và qua nhiều trọng điểm như: Pha Nốp, Tà Khống, Ban Đông, Ta Ben… đồi tranh, đất trống rồi đến Sông Bạc. Từ Sông Bạc ta phải qua hai ngầm tăng, qua dốc Tề Lê, đến dốc Vô Biên cao và hẳm. Qua khỏi dốc Vô Biên thì đến dốc 150, hết dốc này thì đến sân bay Tà Vằn (Lào). Vượt sông Ckmáng, Cke Sụ, qua đèo Ông thì đến Binh trạm 37, gửi hàng ở kho Hai Ông Bà. Đi hai ngày đường nữa thì đến suối Tà Ngầu. Toàn bộ đoạn đường này Mỹ rải chất độc da cam nên cây cối chết sạch, chỉ còn lại những gốc cây trơ trụi và nền đất đỏ, dễ bị địch phát hiện nhất.
Đến cuối năm 1965, đầu năm 1966, vì yêu cầu vận chuyển lớn nên Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn xe đi thẳng từ Hà Nội vào, lấy tên là Mũi Tên Xanh. Đoàn gồm hai đơn vị ngang cấp tiểu đoàn là Đoàn 90 và Đoàn 100, mỗi đoàn có 3 đại đội, mỗi đại đội 50 xe. Lái xe chính là học viên Trường Sĩ quan Hậu cần. Số anh em này hầu hết là anh em đứng tuổi học lái ở trường Tiến Bộ; phụ xe là số anh em lái ở Quân khu 3, Quân khu 1 còn rất trẻ, mới ra trường. Cả hai đoàn đều nhận xe ở Kho 382 Thái Nguyên (xe Gát đầu tới). Sau khi nhận hàng ở Thái Nguyên về nghỉ tại Láng làm công tác chuẩn bị, ngày 10/5/1965 cả hai đoàn “gan vàng, dạ ngọc” cùng xuất phát vào chiến trường. Khoảng tháng 6 thì Đoàn 90 đến sân bay Tà Vằn, vào kho số 7. Bị địch ném bom, đánh phá ác liệt suốt chặng đường nhưng đoàn xe vẫn cứ bon bon, thẳng tiến, với tinh thần “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, chỉ dừng lại nghỉ khi đến vị trí quy định nên khi đến nơi chỉ còn vẻn vẹn một đại đội với chưa đầy 50 xe. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh. Đầu năm 1967, ta thành lập các đoàn xe 56, 52, 100 và 101 bằng xe Zin 157 của Liên Xô và chia thành ba tuyến. Trong đó, tuyến 3 gồm Binh trạm 35 từ Sông Bạc vươn ra 34 ở Tha Mé, lấy hàng vào K.5 Nam Sông Bạc; Binh trạm 36 vươn ra kho 5 lấy hàng về cho 36, 37 và Binh trạm 44 đi theo đường B46 - sân bay Tà Vằn đi xuống huyện 40 (Kon Tum).
Mặc dù địch tăng cường đánh mạnh, ta bị nhiều tổn thất nhưng lực lượng ta (gồm bộ đội lái xe, công binh, thanh niên xung phong…), vẫn ngày càng lớn mạnh, hợp đồng chặt chẽ, vận chuyển với số lượng hàng hóa lớn phục vụ cho chiến trường miền Nam, phục vụ đắc lực và hiệu quả chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước.
XUÂN HIẾU