Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào cả nước,
Thay mặt Chính phủ, tôi chân thành cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào, các cơ quan thông tin đại chúng đã bày tỏ sự nhất trí với báo cáo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã phân tích sâu sắc thêm thực trạng tình hình và nguyên nhân, chỉ rõ thêm nhiệm vụ và nêu thêm những biện pháp cụ thể. Một số ý kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trong quản lý điều hành; yêu cầu Chính phủ trình bày rõ thêm cơ sở của việc điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng và lạm phát; tiết kiệm chi tiêu ngân sách, cắt giảm đầu tư công, nâng cao hiệu quả đầu tư; giảm nhập siêu; chính sách tiền tệ và quản lý ngân hàng thương mại; làm rõ việc các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước đầu tư kinh doanh ngoài chức năng chính; việc bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân; điều hành giá cả các mặt hàng thiết yếu; việc bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội cho người nghèo, người lao động và cán bộ, nhân viên có thu nhập thấp; cải cách hành chính và chống tham nhũng...
Chính phủ xin trân trọng tiếp thu những ý kiến rất xác đáng của các vị đại biểu Quốc hội, của đồng chí, đồng bào. Chính phủ sẽ nỗ lực phấn đấu cao nhất để thực hiện có kết quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà Quốc hội thông qua.
Tại kỳ họp này đã có 132 đại biểu Quốc hội gửi 297 chất vấn đến Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nhiều thành viên Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các thành viên Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao trả lời bằng văn bản tất cả các chất vấn và gần 2 ngày qua đã có 5 vị Bộ trưởng trực tiếp trả lời chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội tại hội trường. Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo giải trình thêm về một số vấn đề mà nhiều vị đại biểu Quốc hội và đồng chí, đồng bào cả nước quan tâm, chất vấn.
I. MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG ĐẦU NĂM
Kinh tế tháng 5 tiếp tục đà phát triển khá, một số lĩnh vực có tiến bộ. Vụ lúa Đông Xuân phía Nam thu hoạch tăng cả về năng suất (3,7%) và sản lượng (5,8%); lúa Đông Xuân phía Bắc đang phát triển tốt; diện tích cây lương thực và rau màu cả nước tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Đàn lợn giảm 3% do dịch tai xanh, nhưng đàn bò đã tăng 3%, đàn gia cầm tăng 6%. Sản lượng thuỷ sản tháng 5 tăng 8,1% so với cùng kỳ. Giá trị sản lượng công nghiệp tháng 5 tăng khoảng 3,4% so với tháng 4, tính chung 5 tháng đầu năm tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2007. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao; có 130 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký trên 7,4 tỷ USD, đưa tổng số dự án được cấp phép 5 tháng đầu năm nay lên 324 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt 14,7 tỷ USD, tăng 160% so với 5 tháng đầu năm 2007. Giá trị xuất khẩu 5 tháng của hầu hết mặt hàng đều tăng, tổng kim ngạch ước đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ. Nhập khẩu tháng 5 ước giảm trên 200 triệu USD so với tháng 4, nên nhập siêu tháng 5 là 55,3%, tuy vẫn cao nhưng đã giảm so với mức nhập siêu tháng 4 (64,7%). Dịch vụ, du lịch cũng đạt mức tăng khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 5 tháng tăng 29,7% so với cùng kỳ.
Các hoạt động khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, xoá đói giảm nghèo tiếp tục được triển khai theo đúng tiến độ chương trình, kế hoạch cả năm.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Trật tự an toàn xã hội tiếp tục ổn định.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội vẫn nổi lên 2 vấn đề lớn; một là, giá tiêu dùng tăng cao, làm cho đời sống của người nghèo, người có thu nhập thấp khó khăn, thiếu đói ở một số địa phương tăng lên; hai là, nhập siêu vẫn còn lớn, đe doạ sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Về giá cả thị trường trong nước: hầu hết giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ tháng 5 đã giảm nhẹ hoặc chỉ tăng ở mức 0,3% đến dưới 2%, riêng giá lương thực tăng đột biến tới 22,19%, làm cho giá tiêu dùng tháng 5 tăng cao trở lại (3,91%) sau 2 tháng đã giảm nhẹ (tháng 3: 2,99%, tháng 4: 2,2%) và giá tiêu dùng 5 tháng tăng 19,09% so với cùng kỳ. Giá lương thực tăng cao chủ yếu do giá lương thực thế giới tăng mạnh, kéo theo giá trong nước tăng lên; ngoài ra, những thông tin thất thiệt và hiện tượng đầu cơ trong những ngày cuối tháng 4 ở một số địa phương cũng góp phần làm giá lương thực tăng đột biến.
Về tình hình thiếu đói: theo báo cáo của các địa phương, tính đến ngày 21 tháng 5 năm 2008, cả nước có 181.600 hộ thiếu đói, với 766.900 nhân khẩu, chiếm 1,6% số hộ, 1,5% số nhân khẩu nông nghiệp cả nước, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do hậu quả của bão lũ cuối năm 2007, của rét đậm, rét hại kéo dài đầu năm 2008 và nay đang là thời điểm giáp hạt. Đã chuyển 23 nghìn tấn lương thực và 9,3 tỷ đồng tới các hộ thiếu đói. Chính phủ sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình này, tập trung đẩy nhanh việc hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất kết hợp với hỗ trợ thiết thực, kiên quyết không để người dân nào bị đói.
Bằng những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong 5 tháng đầu năm tuy còn rất nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung vẫn ổn định, một số mặt đạt được kết quả khá. Những kết quả của 5 tháng đầu năm nay tạo thêm cho chúng ta lòng tin để phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
II. VỀ ĐIỀU CHỈNH CHỈ TIÊU TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ CHỈ SỐ LẠM PHÁT NĂM 2008
1. Về điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP
Như đã báo cáo trước Quốc hội, tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm cho thấy, việc thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng GDP từ 8,5 - 9% và phấn đấu cao hơn đã đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 là không hiện thực. Trên cơ sở đánh giá tình hình thực tế, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 là khoảng 7%. Đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội đồng tình với việc điều chỉnh này, nhưng kiến nghị làm rõ căn cứ xác định mức điều chỉnh cụ thể; một số ý kiến đề nghị giữ nguyên chỉ tiêu đã đề ra từ đầu năm. Chính phủ xin trình bày thêm như sau:
- Tăng trưởng GDP là một chỉ tiêu tổng hợp, đo lường kết quả phát triển kinh tế trong kỳ kế hoạch. Đây là chỉ tiêu định hướng, nhưng là căn cứ quan trọng để xác định chính sách, phân bổ nguồn lực và để tính toán các chỉ tiêu khác trong kế hoạch phát triển, do vậy là cơ sở quan trọng trong điều hành kinh tế - xã hội của đất nước.
- Thực hiện nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát, chúng ta phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt (hạn chế mức tăng của tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng); rà soát điều chỉnh đầu tư công, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tiết kiệm chi tiêu ngân sách; dành thêm ngân sách cho các nhiệm vụ an sinh xã hội. Những biện pháp này làm giảm nguồn lực cho tăng trưởng. Ngoài ra, do giá cả thị trường thế giới tăng cao làm chi phí đầu vào tăng lên trong khi giá đầu ra chưa tăng tương ứng; kinh tế của các đối tác thương mại chính của Việt Nam suy giảm làm cho xuất khẩu của ta gặp khó khăn, đầu tư gián tiếp từ nước ngoài có phần giảm sút..., cũng làm giảm mức tăng trưởng. Mặc dù GDP quý I tăng 7,4% nhưng tốc độ tăng đã chậm lại và thấp hơn nhiều so với nhiệm vụ kế hoạch. Từ tình hình trên, việc giảm tốc độ tăng trưởng là một yêu cầu thực tế và cần thiết.
- Để xác định cụ thể chỉ tiêu tăng trưởng năm 2008 theo tinh thần kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng bền vững, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương) phối hợp với một số cơ quan trong nước và tổ chức quốc tế tính toán các khả năng tăng trưởng theo 3 phương án. Kết quả: mức tăng trưởng theo phương án cơ bản là 7,2%, phương án cao là 7,6% và phương án thấp là 6,7%.
Sau khi cân nhắc các mặt, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét chấp nhận mức tăng GDP năm 2008 khoảng 7%. Mức tăng này cũng tương đương với dự báo của một số tổ chức quốc tế về tốc độ tăng trưởng của kinh tế nước ta năm 2008 và phù hợp với xu thế giảm chỉ tiêu tăng trưởng ở nhiều nước trên thế giới từ 0,5 đến 2% trước tình hình lạm phát và giá cả thế giới tăng cao như hiện nay.
Điều quan trọng, như Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại phiên khai mạc kỳ họp này là: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải thường xuyên theo dõi tình hình, cập nhật đầy đủ thông tin, bình tĩnh, thận trọng, phân tích, đánh giá để có phản ứng chính sách thích hợp nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực do những khó khăn mới nẩy sinh; mặt khác, phải nhanh nhạy tận dụng có hiệu quả thời cơ mới xuất hiện để phát huy tốt tiềm năng tăng trưởng của đất nước.
2. Về xác định chỉ số lạm phát năm 2008
Khi thảo luận về tình hình và chỉ tiêu lạm phát năm 2008, nhiều đại biểu đặt ra hai vấn đề lớn: một là, tại sao cùng chịu tác động của thiên tai dịch bệnh, của tăng giá dầu mỏ, tăng giá lương thực, giá các nguyên liệu khác… nhưng lạm phát ở Việt Nam lại cao hơn so với nhiều nước khác; hai là, vì sao Chính phủ đề nghị: tích cực phấn đấu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng các giải pháp tổng hợp đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần mà không xác định con số cụ thể. Đây là những câu hỏi quan trọng và rất xác đáng.
- Về những nguyên nhân lạm phát và lạm phát ở nước ta cao hơn nhiều nước, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại phiên khai mạc kỳ họp này. Tôi xin trình bày thêm như sau:
Một là, do đầu tư kém hiệu quả, làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm và của nền kinh tế thấp. Đây là nguyên nhân sâu xa gây lạm phát và đã tồn tại nhiều năm nhưng chậm được khắc phục.
Hai là, giá lương thực thực phẩm có tác động rất lớn, rất trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta. Do thu nhập bình quân đầu người và mức sống thấp nên khoản chi mua lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu dùng của đa số dân cư. Nhóm hàng này chiếm tới 42,85% cơ cấu hàng hoá tính chỉ số giá tiêu dùng và có tốc độ tăng giá cao nhất, liên tục trong những năm gần đây. Từ năm 2004 đến nay, nhóm hàng này đã quyết định từ 50 đến 80% mức tăng giá tiêu dùng[1], chưa kể đến việc giá lương thực thực phẩm tăng còn là tác nhân kích giá các hàng hoá và dịch vụ khác tăng theo. Tháng 5 năm 2008, giá tiêu dùng tăng 3,91%, nguyên nhân chính là giá lương thực tăng đến 22,19%, cao nhất từ trước đến nay, trong khi giá hầu hết các mặt hàng khác đều có mức tăng thấp hơn tháng 4 năm 2008[2].
Ba là, kim ngạch nhập khẩu nước ta gần bằng 90% GDP nên sự biến động của giá thị trường thế giới tác động đến giá trong nước sâu rộng hơn. Những năm gần đây, giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng rất cao lại là những mặt hàng ta nhập khẩu với khối lượng lớn. Tình hình đó gây ra hiện tượng "nhập khẩu lạm phát". Mặt khác, trong khi nhiều nước trong khu vực đã điều chỉnh tăng giá nội tệ so với đồng đô la Mỹ, việc đồng Việt
Bốn là, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã chủ động điều chỉnh giá một số mặt hàng nhà nước còn trực tiếp quản lý. Đây là việc làm cần thiết, được thực hiện có lộ trình, từng bước góp phần bỏ bù lỗ, xoá bao cấp qua giá. Mặc dù mức giá mới nói chung vẫn còn thấp so với giá thị trường thế giới nhưng mỗi lần điều chỉnh như vậy đều làm cho giá thị trường trong nước tăng lên.
Năm là, từ năm 2003 đến nay, chúng ta liên tục điều chỉnh lương hàng năm với mức tăng tối thiểu là 20%. Việc tăng lương là cần thiết, chúng ta đã kiên quyết làm tuy biết rằng tăng lương cũng làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên, tạo sức ép và gây tâm lý tăng giá.
- Về xác định chỉ số lạm phát trong năm 2008
Lạm phát ở nước ta, ngoài những nguyên nhân thuộc chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và những nguyên nhân nội sinh khác, còn phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bên ngoài: giá lương thực thế giới đang tăng cao kéo theo giá trong nước tăng lên, đây là việc khó tránh, không chỉ đối với các nước nhập khẩu mà ngay cả đối với nước xuất khẩu như nước ta; thiên tai dịch bệnh còn diễn biến bất thường; giá xăng dầu, giá đồng đô la Mỹ đang biến động mạnh, rất khó dự báo; ngoài ra, yếu tố tâm lý cũng tác động đến việc hình thành mặt bằng giá nước ta. Các yếu tố này đang diễn biến phức tạp và tác động đan xen trong khi thời gian đến cuối năm chỉ còn 7 tháng, rất khó có đủ căn cứ vững chắc để trình Quốc hội con số cụ thể về tốc độ tăng giá. Vì vậy, Chính phủ đề nghị Quốc hội chấp nhận mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm 2008 là: “tích cực phấn đấu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng các biện pháp tổng hợp, đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần” tạo cơ sở để đưa tốc độ tăng giá xuống một con số trong vài năm tới.
Có thể nói, chúng ta không thể giảm nhanh lạm phát chỉ với những nỗ lực chủ quan, mặt khác để tránh những tác động bất lợi khác cho nền kinh tế cũng không nên giảm lạm phát một cách đột ngột[3]. Kinh nghiệm chống lạm phát của các nước và nước ta trong những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ trước cho thấy, để đưa lạm phát xuống thấp cần phải có thời gian.
Ngoài ra, như đã nêu ở trên, do mức cung và lượng cầu nhiều mặt hàng thay đổi có tính thời vụ, theo các quy luật vận động riêng, nên biến động giá cả các tháng, các quý có thể khác nhau, không hẳn tháng sau thấp hơn tháng trước. Trong điều kiện đó, khuynh hướng vận động của giá là quan trọng nhất. Phải làm cho tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm dần xuống. Đây là yêu cầu cấp thiết và có tính khả thi.
Với những phân tích nêu trên, xin Quốc hội xem xét chấp nhận đề nghị này của Chính phủ.
Còn về chỉ tiêu giảm nghèo và các chỉ tiêu khác, xin kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ căn cứ vào tình hình tăng trưởng và kiềm chế lạm phát để phấn đấu đạt mức cao nhất có thể.
III. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHIỀU VỊ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐỒNG BÀO CẢ NƯỚC QUAN TÂM, CHẤT VẤN
1. Về rà soát, sắp xếp lại các dự án đầu tư
Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp, trong đó có việc rà soát, điều chỉnh đầu tư công, đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; thực hiện triệt để tiết kiệm chi thường xuyên từ nguồn ngân sách. Các đại biểu Quốc hội đều đồng tình với chủ trương này và đề nghị Chính phủ phải chỉ đạo thực hiện một cách kiên quyết. Xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Về sắp xếp lại các dự án đầu tư công
Thông thường, khi giá vật tư, thiết bị tăng cao, Chính phủ thường phải cấp bổ sung vốn để bù đắp phần trượt giá, điều chỉnh tăng vốn cho các dự án, công trình đầu tư từ nguồn ngân sách. Năm nay, giá vật tư, thiết bị tăng mạnh hơn các năm trước, nhưng Chính phủ chỉ đạo giữ nguyên tổng mức vốn đầu tư đã phân bổ từ đầu năm, đồng thời, yêu cầu rà soát, cắt giảm, đình hoãn các dự án, công trình chậm hoàn thành, kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình, dự án hiệu quả, có khả năng hoàn thành sớm trong năm 2008, 2009. Đây là một việc khó, nhưng các Bộ, ngành và địa phương đã thể hiện quyết tâm thực hiện chủ trương này. Đến ngày 28 tháng 5 năm 2008, đã có 28 Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 43 địa phương và 8 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước báo cáo về số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 995 dự án với tổng số vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước là 3.983 tỷ đồng, bằng 7,8% tổng số vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Các đơn vị, địa phương đang tiếp tục rà soát với tinh thần tích cực, khẩn trương. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đôn đốc, kiểm tra để bảo đảm chấp hành nghiêm chỉ đạo của Chính phủ.
- Về các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
Chính phủ chủ trương kiên quyết rà soát để đình hoãn các dự án, công trình tuy đã có trong danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ nhưng chưa chuẩn bị xong thủ tục đầu tư theo quy định. Theo tinh thần trên, sau khi rà soát, tổng mức vốn đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ dự kiến cắt giảm là trên 9.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% kế hoạch năm 2008[4]. Đồng thời, Chính phủ cho phép giải ngân khối lượng hoàn thành vượt mức kế hoạch của các dự án có tiến độ thi công nhanh và xem xét bổ sung vốn đối với các dự án có tiến độ vượt kế hoạch, các công trình có hiệu quả và các công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội.
- Về hiệu quả đầu tư
Một số ý kiến đại biểu nhận xét, tình trạng đầu tư kém hiệu quả đã có từ những năm trước đây, hệ số ICOR[5] tăng cao, đề nghị Chính phủ làm rõ nguyên nhân và các giải pháp khắc phục.
Theo một số tính toán, giai đoạn 2002 - 2007, hệ số ICOR của Việt Nam khoảng từ 4,5 - 5,3; như vậy, để làm ra một đồng GDP cần khoảng 4,5 đến 5,3 đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nước ta cao hơn một số nước ở giai đoạn phát triển tương đương[6] do những nguyên nhân chủ yếu là:
Những bất cập trong công tác quy hoạch và những yếu kém trong quản lý nên đầu tư còn dàn trải, nhiều công trình kéo dài chậm đưa vào sử dụng, tình trạng lãng phí, thất thoát còn lớn, hiệu quả đầu tư thấp. Tăng trưởng ở nước ta chủ yếu vẫn là theo chiều rộng, tỷ lệ đóng góp của vốn vào tăng trưởng có xu hướng tăng, đóng góp của lao động có xu hướng giảm dần, đóng góp của các nhân tố tổng hợp như tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, quản lý còn thấp.
Thời gian qua, vốn đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, tuy còn thấp xa so với yêu cầu nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Đây là việc làm hết sức cần thiết, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với nông dân và đồng bào vùng khó khăn, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Những công trình này đã góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải thiện điều kiện ăn ở và đi lại của nhân dân, nhưng trong ngắn hạn chưa tạo ra nhanh và nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó tập trung vào các biện pháp chủ yếu như: kiểm soát chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện hệ thống thể chế; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và chất lượng thẩm định; đề cao trách nhiệm của chủ đầu tư và người ra quyết định đầu tư; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và của xã hội.
2. Về tiết kiệm chi thường xuyên từ nguồn ngân sách
Chính phủ đã chỉ đạo rõ việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong 8 tháng còn lại của năm 2008 ngoài phần tiết kiệm 10% theo kế hoạch từ đầu năm và đã có nghị quyết riêng về vấn đề này. Bộ Tài chính đã có hướng dẫn cụ thể. Theo báo cáo, số tiết kiệm được dự kiến khoảng 2.700 tỷ đồng.
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính tiếp tục kiểm tra để bảo đảm thực hiện nghiêm chủ trương này.
3. Về hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
Sau một quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, hiện nay cả nước có 8 tập đoàn kinh tế, 96 tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn, tổng công ty chủ yếu hoạt động theo hình thức công ty mẹ - công ty con, trong đó 74% công ty con là công ty cổ phần, đa sở hữu. Theo báo cáo của Bộ Tài chính (trên cơ sở báo cáo của 76 tập đoàn, tổng công ty)[7], kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước so với năm 2006 đạt khá: hầu hết tập đoàn, tổng công ty sản xuất kinh doanh có lãi[8]. Tổng vốn chủ sở hữu là 377 nghìn tỷ đồng, tăng 18% chủ yếu được bổ sung từ lợi nhuận. Tổng tài sản năm 2007 tăng 26%; tổng doanh thu tăng 24%; tổng lợi nhuận tăng 23%; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đạt 17% (năm 2006 là 16%). Giá trị sản lượng hàng hóa, dịch vụ chiếm 40% GDP, đóng góp 28,8% tổng thu nội địa (không kể thu dầu thô và thuế xuất nhập khẩu).
Tuy hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn giá cả một số mặt hàng thiết yếu; thực hiện các dự án đầu tư phát triển hạ tầng mà khả năng thu hồi vốn chậm và các nhiệm vụ công ích ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Một số doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu có uy tín trên thị trường; đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và xây dựng được đội ngũ lao động kỹ thuật cao; đảm nhiệm được nhiều công việc trước đây vẫn phải thuê hoặc mua của nước ngoài.
Thời gian gần đây, có một số ý kiến lo ngại về tình hình huy động vốn của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và việc một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư nhiều vào kinh doanh bất động sản, chứng khoán và tài chính, ngân hàng, là những lĩnh vực không thuộc ngành nghề chính.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, tổng số vốn huy động (bao gồm vốn vay trong nước, vay nước ngoài, vay ngắn hạn, dài hạn và các khoản nợ phải trả khác) của 76 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 514 nghìn tỷ đồng, gấp 1,36 lần vốn chủ sở hữu. Xét về tổng thể là vẫn bảo đảm an toàn về tài chính. Một số doanh nghiệp có mức huy động cao hơn, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng để có giải pháp thích hợp với từng trường hợp.
Cũng tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 có 13 tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các quỹ đầu tư chứng khoán và quỹ đầu tư tài chính với tổng giá trị 1.061 tỷ đồng, bằng 0,31% vốn chủ sở hữu và bằng 0,13% tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp này. Có 19 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần với tổng giá trị đầu tư 4.426 tỷ đồng, bằng 1,3% vốn chủ sở hữu và bằng 0,55% tổng giá trị tài sản. Có 13 tập đoàn, tổng công ty nhà nước góp vốn thành lập 15 công ty chứng khoán với tổng giá trị đầu tư 420 tỷ đồng, bằng 0,12% vốn chủ sở hữu và bằng 0,05% tổng giá trị tài sản. Có 18 tập đoàn, tổng công ty nhà nước góp vốn đầu tư vào lĩnh vực bất động sản với tổng giá trị đầu tư 1.463 tỷ đồng, bằng 0,43% vốn chủ sở hữu và 0,18% tổng giá trị tài sản của chính các doanh nghiệp này. Xét chung, tổng vốn đầu tư vào 3 lĩnh vực trên là 7.370 tỷ đồng, là con số không nhỏ nhưng không cao so với vốn chủ sở hữu và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhận thức rõ rằng, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, nắm giữ một khối lượng lớn tài sản quốc gia, chiếm tỷ trọng cao nợ nước ngoài và nợ các ngân hàng trong nước của khối doanh nghiệp; hiệu quả hoạt động của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước có ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì thế, hoạt động của khối doanh nghiệp này cần phải được giám sát chặt chẽ, đánh giá một cách đầy đủ, nghiêm túc, minh bạch thông qua kiểm toán độc lập, tin cậy nhằm nắm chắc thực trạng, có giải pháp kịp thời, phù hợp để khắc phục các yếu kém, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này trong công cuộc phát triển đất nước.
Điều quan trọng là phải khẩn trương xác định rõ hơn các nội dung cụ thể về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà lực lượng quan trọng là doanh nghiệp nhà nước, để tránh sự mâu thuẫn, thậm chí tự mâu thuẫn khi sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng, đó là: "Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"[9] và "hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân..."[10].
Chính phủ đang chỉ đạo chuẩn bị sơ kết việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và xây dựng nghị định về tập đoàn kinh tế nhà nước. Trước mắt, kiểm soát chặt chẽ việc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư vào kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, bất động sản. Đồng thời đẩy mạnh việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch đã đề ra, trong đó biện pháp cơ bản là thực hiện có hiệu quả công tác cổ phần hoá, hình thành đa sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, tăng cường sự giám sát của cổ đông và xã hội, làm cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt nhất vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước phải tập trung chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ này.
4. Về các giải pháp giảm nhập siêu
Là một nước đang phát triển hướng đến mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhập siêu là bình thường nếu ở một tỷ lệ hợp lý. Tuy nhiên tỷ lệ nhập siêu 4 tháng đầu năm nay ở mức 64,7% là quá cao, làm ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán quốc tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, Chính phủ coi việc giảm nhập siêu là một mục tiêu quan trọng, trong đó biện pháp cơ bản, chủ yếu là tăng mạnh xuất khẩu đồng thời kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu.
Mặc dù thị trường, giá cả thế giới biến động mạnh, xuất khẩu 5 tháng đầu năm tăng 27,2% so với 22% cùng kỳ năm 2007. Nếu chúng ta tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp tháo gỡ khó khăn để đẩy mạnh xuất khẩu, dự kiến xuất khẩu cả năm 2008 có thể tăng khoảng 26% (kế hoạch là 20 - 22%). Đây là mục tiêu rất cao, phải nỗ lực phấn đấu mới đạt được.
Trong 4 tháng đầu năm nay, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ 2007. Ngoài nguyên nhân do giá nhập khẩu tăng, nhiều mặt hàng được nhập khẩu với số lượng rất lớn[11]. Cùng với việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ làm giảm cầu trong một số lĩnh vực, Chính phủ đã chỉ đạo các ngành chức năng tập trung rà soát và bằng các biện pháp thích hợp, cả về thuế, hàng rào kỹ thuật... để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng không thiết yếu, những hàng hoá trong nước có thể thay thế được... Theo số liệu ban đầu, nhập khẩu tháng 5 giảm trên 200 triệu USD so với tháng 4. Nhờ xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu giảm nên tỷ lệ nhập siêu tháng 5 là 55,3%, tuy vẫn còn cao nhưng đã giảm so với tháng 4 (64,7%).
Chính phủ chủ trương tiếp tục thực hiện có hiệu quả các biện pháp đồng bộ để đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, bảo đảm đủ các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, phấn đấu đưa tỷ lệ nhập siêu giảm xuống bằng mức năm 2007 (là khoảng 30%). Để thực hiện tốt chỉ tiêu vĩ mô quan trọng này, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, các doanh nghiệp cần chủ động cân đối nhu cầu và tiến độ nhập khẩu; tích cực khai thác, sử dụng hàng hoá trong nước đã sản xuất được, kiên quyết chống thất thoát, triệt để tiết kiệm nguyên nhiên liệu, năng lượng. Chính phủ yêu cầu các cơ quan, đơn vị và kêu gọi mọi người hưởng ứng, tự giác thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, dành thêm tài lực vào phát triển sản xuất kinh doanh, thiết thực góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn để ổn định và phát triển.
5. Chủ trương điều hành giá cả, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân
Giá cả và điều hành giá là chủ đề được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm. Một trong những nội dung cốt lõi của quá trình đổi mới ở nước ta là thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó bao gồm lĩnh vực giá cả. Thực hiện quản lý giá theo nguyên tắc thị trường trước hết là xoá bỏ bao cấp qua giá, giá cả hàng hoá cơ bản do quan hệ cung cầu quyết định. Nhà nước điều tiết thị trường, giá cả chủ yếu bằng các công cụ kinh tế vĩ mô. Nhà nước chỉ kiểm soát giá các hàng hoá và dịch vụ độc quyền kinh doanh nhưng tiến tới thực hiện nguyên tắc không bù lỗ.
Những năm trước đây Chính phủ đã xác định lộ trình thực hiện giá thị trường đối với những mặt hàng thuộc danh mục Nhà nước trực tiếp quản lý giá. Theo đó, sẽ điều chỉnh tăng với bước đi hợp lý để đến hết năm 2008 cơ bản sẽ áp dụng giá thị trường đối với các hàng hoá và dịch vụ thuộc danh mục này. Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII đã quyết nghị về một trong những nhiệm vụ năm 2008 là: xây dựng và công bố lộ trình thực hiện giá thị trường đối với các hàng hoá và dịch vụ Nhà nước còn kiểm soát việc định giá.
Tuy nhiên, những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, lạm phát tăng cao, để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than, nước sinh hoạt, cước vận chuyển máy bay, tàu hoả, xe buýt đến hết tháng 6 năm 2008 và sẽ căn cứ vào tình hình lạm phát và biến động trên thị trường để có phương án xử lý tổng thể, thích hợp cả về thời gian và mức độ đối với từng loại, từng nhóm sản phẩm, với phương châm Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác trách nhiệm, Nhà nước sẽ hỗ trợ thích hợp cho những đối tượng có nhiều khó khăn. Chính phủ không chủ trương tăng giá đồng loạt các mặt hàng nói trên sau tháng 6.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, việc điều hành giá sẽ theo định hướng sau đây:
- Đối với các mặt hàng do Nhà nước trực tiếp quản lý giá, việc điều chỉnh giá phải căn cứ vào kết quả chống lạm phát, tác động của việc điều chỉnh giá đến giá cả thị trường và đời sống nhân dân. Trường hợp cần điều chỉnh, phải xác định bước đi và lộ trình phù hợp.
Riêng đối với mặt hàng xăng dầu, do giá đang tăng cao và biến động rất phức tạp, với giá bán hiện tại mức bù lỗ là rất lớn[12]. Trong tình hình lạm phát hiện nay, việc xử lý giá xăng dầu cần được cân nhắc cẩn trọng dựa trên khả năng bù lỗ của ngân sách; kết quả kiềm chế lạm phát và tác động của điều chỉnh giá xăng dầu đến giá các mặt hàng khác, có tính đến việc hỗ trợ thích hợp cho những đối tượng gặp khó khăn. Trước hết, các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu phải bảo đảm đủ nguồn hàng, triệt để tiết kiệm chi phí, kiên trì phương châm lấy lúc lãi bù lúc lỗ, không chạy theo sự thay đổi nhất thời của thị trường. Áp dụng các biện pháp mạnh để chống đầu cơ và buôn lậu xăng dầu qua biên giới.
- Về điều hành giá lương thực, như đã trình bày ở trên, ở nước ta, lương thực thực phẩm là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hoá tính chỉ số giá tiêu dùng, lại chịu tác động mạnh, trực tiếp từ giá lương thực của thị trường thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, việc điều hành giá lương thực càng trở nên rất quan trọng.
Chúng ta đã thực hiện cơ chế giá thị trường đối với mặt hàng lương thực từ rất sớm. Đây là một bước tiến lớn của công cuộc đổi mới. Việc điều tiết giá lương thực chủ yếu tác động vào quan hệ cung cầu thông qua việc đẩy mạnh sản xuất tăng nguồn hàng, điều tiết hoạt động xuất khẩu, tổ chức cung ứng lương thực trong nước.
Năm nay, tổng sản lượng lúa dự kiến đạt 36,3 đến 36,5 triệu tấn, bảo đảm cân đối đủ cho tiêu dùng trong nước và còn lại một khối lượng lúa hàng hoá khoảng từ 8,3 đến 8,5 triệu tấn, tương đương 4,1 đến 4,2 triệu tấn gạo để xuất khẩu.
Chính phủ chủ trương việc điều hành xuất khẩu gạo trước hết phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, giữ giá gạo trong nước ở mức hợp lý, tiêu thụ hết lúa hàng hoá với giá có lợi cho người trồng lúa và xuất khẩu gạo với số lượng và tiến độ thích hợp.
Trong 19 năm qua kể từ năm 1989, nước ta đã xuất khẩu gần 60 triệu tấn gạo, bình quân mỗi năm trên 3 triệu tấn. Trong 10 năm gần đây lượng gạo xuất khẩu hàng năm đã tăng lên, đạt trên 4 triệu tấn/năm, riêng năm 2007 xuất khẩu trên 4,5 triệu tấn. Từ đầu năm nay, trước những diễn biến phức tạp của thiên tai, dịch bệnh trong nước, Chính phủ đã quy định lượng gạo xuất khẩu cả năm 2008 ở mức 3,5 đến 4 triệu tấn với tiến độ ký kết và giao hàng thích hợp. Đồng thời, giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương căn cứ tình hình thực tế mùa màng đề xuất điều chỉnh số lượng và tiến độ xuất khẩu trong những tháng cuối năm. 4 tháng đầu năm nay, sau khi cân đối đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, sản lượng lúa hàng hoá còn lại khoảng 5 triệu tấn (tương đương với 2,5 triệu tấn gạo)[13]. 5 tháng đầu năm chúng ta vẫn duy trì tiến độ xuất khẩu phù hợp, lượng gạo xuất khẩu đạt trên 2,1 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,17 tỷ USD, tăng 12,9% về lượng và 94% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Ở nước ta trên 90% sản lượng lúa hàng hoá được sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều năm trước đây, khi giá lúa còn ở mức thấp, Chính phủ định hướng điều hành giá mua lúa, bảo đảm người trồng lúa sau khi trừ chi phí còn lãi khoảng 40%. Định hướng này đã được chấp nhận rộng rãi. Những năm gần đây, mặc dù chi phí sản xuất và giá cả nhiều hàng hoá và dịch vụ tăng cao, nhưng tỷ lệ lãi của người trồng lúa vẫn được nâng lên và cần được tiếp tục duy trì ở mức thoả đáng. Vụ Đông Xuân năm nay, các chi phí đầu vào tăng mạnh nhưng giá bán lúa tăng cao hơn nên tỷ lệ lãi sau khi trừ chi phí đạt trên 85%[14], tăng đáng kể so với vụ Đông Xuân năm ngoái (70%).
Mặc dù vậy, nhìn chung, đời sống của nông dân vẫn còn nhiều khó khăn và nông dân vẫn là đối tượng được hưởng lợi ít hơn so với nhiều đối tượng khác trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, việc nâng cao đời sống nông dân không thể chỉ dựa vào việc tăng giá hàng nông sản, nhất là tăng giá lúa. Chính phủ đang chỉ đạo chuẩn bị tốt Đề án nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó sẽ đề xuất và chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao hơn nữa đời sống cho nông dân trong những năm tới.
Cùng với điều hành xuất khẩu gạo, tổ chức tốt việc cung ứng gạo trong nước là một yếu tố quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế lạm phát. Việc để xảy ra thiếu gạo, sốt giá cục bộ trong mấy ngày cuối tháng 4 vừa qua ở một số địa phương là hoàn toàn không đáng có, trong lúc gạo hàng hoá còn lớn, mùa màng đang thu hoạch với năng suất và sản lượng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu cơ, các cơ quan chức năng trên địa bàn đã không theo sát tình hình để phát hiện sớm và có biện pháp xử lý kịp thời.
Một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bền vững là phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý sử dụng đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa. Chính phủ đang tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội khoá XI về quy hoạch tổng thể và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006 - 2010) của cả nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2010 giữ diện tích đất trồng lúa là 3,86 triệu ha, trong đó đất lúa 2 vụ trở lên là 3,3 triệu ha. Chỉ đạo khẩn trương rà soát, kiểm tra việc thực hiện để có sự điều chỉnh và hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác. Cùng với việc tăng cường quản lý đất trồng lúa theo các quy định của pháp luật, Chính phủ sẽ nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách phù hợp, bảo đảm lợi ích kinh tế thoả đáng cho người trồng lúa.
- Để bình ổn giá cả, quan trọng nhất là phải đẩy mạnh sản xuất nhằm tăng nguồn cung cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bảo đảm cân đối cung cầu trong phạm vi toàn quốc cũng như trên từng địa bàn, không để xẩy ra mất cân đối cục bộ. Chính phủ giao trách nhiệm cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các hiệp hội ngành hàng đề cao vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tổ chức hệ thống phân phối, tăng cường kiểm tra hoạt động của mạng lưới bán lẻ và đại lý bán lẻ của mình, thực hiện bán đúng giá theo hợp đồng cung ứng, tiêu thụ hoặc hợp đồng đại lý.
6. Thực hiện tốt công tác thông tin thị trường, chủ động ngăn chặn đầu cơ nâng giá
Thông tin có tác động rất nhanh, rất mạnh đến thị trường giá cả. Thông tin không chính xác sẽ gây nên những bất ổn trên thị trường, làm thiệt hại cho người dân, và trong tình hình hiện nay sẽ tạo thêm những khó khăn cho việc kiềm chế lạm phát, như trường hợp sốt giá gạo cuối tháng tư vừa qua. Tình trạng này có nguyên nhân từ công tác tổ chức thông tin. Chính phủ đã có quy định về cung cấp thông tin, nhưng việc thực hiện thời gian qua chưa tốt. Để chấn chỉnh tình hình này, Chính phủ yêu cầu:
Các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động cung cấp thông tin chính thức cho nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình kinh tế - xã hội, về quan hệ cung cầu, về thị trường, giá cả để nhân dân, doanh nghiệp hiểu rõ tình hình, chủ động ứng xử thích hợp.
Phải thiết lập hệ thống thông tin báo cáo thông suốt từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, phối hợp chặt chẽ để khi xuất hiện những thông tin không chính xác trong dư luận phải kịp thời xử lý, điều chỉnh, định hướng đúng nhằm ngăn chặn những tác động bất lợi tới sự ổn định của thị trường, giá cả.
Các cơ quan thông tin đại chúng phải đưa tin chính xác và chịu trách nhiệm về các thông tin được đăng tải; không đưa những thông tin làm ảnh hưởng xấu đến thị trường giá cả, bất lợi cho việc kiềm chế lạm phát, gây thiệt hại cho người dân; đồng thời, phải có trách nhiệm tham gia tuyên truyền về chính sách và hoạt động điều hành thị trường của Chính phủ.
Chính phủ khuyến nghị nhân dân tin tưởng vào thông tin chính thức của các cơ quan nhà nước, hết sức thận trọng trước những thông tin không rõ nguồn gốc. Chính phủ giao các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương thực hiện kiểm tra và xử lý nghiêm việc đưa những thông tin sai lệch gây mất ổn định thị trường và những trường hợp tung tin sai lạc để trục lợi.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, áp dụng các biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, nhất là buôn lậu xăng dầu, than, khoáng sản qua biên giới.
7. Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội
Bảo đảm an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của phát triển bền vững. Trong nhiều năm qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, trong đó đặc biệt chăm lo đến việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, trợ giúp gia đình chính sách, người có công, người gặp khó khăn.
Đến nay chúng ta đã xây dựng được một hệ thống chính sách an sinh xã hội với nhiều chương trình, dự án, giải pháp và đã mang lại kết quả rất tích cực, nhất là về xoá đói giảm nghèo, được nhân dân đồng tình và quốc tế đánh giá cao. Gần đây trước tình hình thiên tai dịch bệnh xảy ra nhiều, lạm phát tăng cao, Chính phủ đã ban hành thêm một số chính sách nhằm trợ giúp cấp bách người nghèo và các đối tượng khó khăn.
Để bảo đảm an sinh xã hội trong thời gian tới, nhiệm vụ trọng tâm là phải tập trung thực hiện tốt các chính sách đã ban hành, trước hết là ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn, xây dựng cơ chế thực thi và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không để thất thoát, lãng phí. Báo cáo mới đây của các đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính chủ trì về tình hình sử dụng kinh phí và lương thực hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai năm 2007 tại 8 tỉnh trọng điểm cho thấy, nhìn chung các địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, chưa phát hiện thất thoát tiêu cực. Tuy nhiên công tác cứu trợ triển khai còn chậm, việc nắm tình hình, báo cáo thiệt hại có nơi chưa sát thực, việc tổ chức hỗ trợ ở một số nơi chưa đúng đối tượng.
Cùng với việc thực hiện tốt chính sách đã ban hành, phải kịp thời sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu ban hành mới nhằm hoàn thiện các cơ chế chính sách về an sinh xã hội. Trong kỳ họp này, các vị đại biểu Quốc hội đồng tình với các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội nêu trong báo cáo của Chính phủ và góp nhiều ý kiến thiết thực nhằm giải quyết tốt hơn nữa về an sinh xã hội[15]. Các đề nghị cụ thể này, Chính phủ xin tiếp thu để có xử lý cụ thể và tiếp tục hoàn thiện một cách cơ bản, bao quát được hết và giải quyết tốt hơn những vấn đề đặt ra về an sinh xã hội.
Về sửa đổi chuẩn nghèo, từ năm 1993 - 2006, chúng ta đã 5 lần điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và từng bước tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Sau mỗi lần điều chỉnh, số hộ được hưởng chính sách trợ giúp tăng thêm. Chúng ta đang áp dụng chuẩn nghèo ban hành từ năm 2005[16]. Trước tình hình thiên tai dịch bệnh và giá cả tăng cao, nhiều đại biểu quan tâm đến việc điều chỉnh chuẩn nghèo, Chính phủ cũng đã nhận thấy đây là việc làm cần thiết và đã chỉ đạo triển khai việc điều chỉnh như đã báo cáo trước Quốc hội tại phiên khai mạc. Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình các phương án điều chỉnh chuẩn nghèo, có tính đến mức tăng thu nhập bình quân của cả nước và tình hình lạm phát hiện nay. Việc điều chỉnh chuẩn nghèo chỉ có ý nghĩa nếu trên cơ sở chuẩn mới, các địa phương tiến hành điều tra nghiêm túc, chính xác tỷ lệ hộ nghèo, đề ra và thực hiện các chương trình hành động giảm nghèo có hiệu quả, bảo đảm giảm nghèo bền vững.
Về tiền lương và đời sống: tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà mỗi cá nhân, mỗi nhóm dân cư có thể có những cảm nhận khác nhau về tác động của các đợt tăng lương đến đời sống trong tình hình lạm phát hiện nay. Theo số liệu tính toán, từ năm 2003 đến nay, qua 5 lần điều chỉnh, mức lương trung bình của công chức, viên chức đã tăng lên 2,38 lần trong khi giá tiêu dùng tăng 70,22%[17]; các chính sách trợ cấp xã hội khác cũng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, do giá tiêu dùng, nhất là giá lương thực, thực phẩm tăng, thực hiện kết luận của Bộ Chính trị[18], Chính phủ đang chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết để điều chỉnh tăng lương theo lộ trình thích hợp cho cán bộ, nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp và mở rộng trợ cấp cho các đối tượng chính sách nhằm khắc phục tác động tiêu cực của lạm phát.
8. Về tăng cường tổ chức thực hiện và trách nhiệm của các thành viên Chính phủ
Báo cáo của Chính phủ về phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững đã nhận được sự chia sẻ và đồng tình của Quốc hội. Nhưng tổ chức thực hiện như thế nào là vấn đề được nhiều vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào quan tâm, thậm chí không ít ý kiến băn khoăn lo lắng. Đây cũng là mối quan tâm, lo lắng của Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ. Trong thực tế điều hành kinh tế - xã hội, không ít trường hợp có khoảng cách giữa nói và làm, giữa chủ trương chính sách với việc thực hiện chủ trương chính sách đó trong thực tiễn. Nếu không đủ quyết tâm, chỉ đạo không quyết liệt, hành động không khẩn trương và đồng bộ, không thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thì dù mục tiêu có đúng, giải pháp có tốt cũng không đạt được kết quả như mong muốn. Hơn nữa, trong nhóm giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, có những giải pháp có thể gây tác động trái chiều, rất dễ phát sinh lúng túng trong tổ chức thực hiện. Phương hướng tuy đúng nhưng liều lượng các giải pháp không hợp lý, có thể làm xuất hiện các khó khăn mới. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu chống lạm phát, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ của toàn dân. Với trách nhiệm của mình, Chính phủ đang tập trung chỉ đạo khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp, trên một số mặt công việc đã có kết quả bước đầu. Chính phủ sẽ rất coi trọng công tác kiểm tra, nắm chắc tình hình, kịp thời xử lý những vấn đề mới nẩy sinh nhằm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ mà Quốc hội thông qua tại kỳ họp này, tạo ra sự chuyển biến tích cực trên từng công việc cụ thể, qua từng thời gian.
Giá cả thị trường và kinh tế thế giới còn biến động rất khó lường, những yếu tố tác động xấu đến kinh tế trong nước còn nhiều. Trong khi kiên trì thực hiện các nhóm giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã tính đến các tình huống khác nhau và đang giám sát chặt chẽ các cân đối vĩ mô quan trọng nhất, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các tình huống phức tạp có thể xẩy ra.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Giá cả tăng cao làm cho đời sống của đại bộ phận dân số nước ta vốn đang thấp lại khó khăn thêm, nhất là những người nghèo, người lao động có thu nhập thấp. Mỗi gia đình, mỗi người đang phải giảm bớt chi tiêu, vất vả lo toan cho cuộc sống hàng ngày. Chính phủ thấu hiểu, chia sẻ với đồng bào và càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, càng phải ra sức phấn đấu quyết liệt để kiềm chế lạm phát.
Những biến động vừa qua giúp Chính phủ nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn tính phức tạp trong quản lý một nền kinh tế đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; càng thấy rõ hơn những bất cập, yếu kém của mình; mỗi thành viên Chính phủ cũng có thêm những bài học mới, kinh nghiệm mới.
Chính phủ nhận thức rằng: thái độ nhận khuyết điểm tích cực và có trách nhiệm nhất là nhìn thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào những bất cập, yếu kém của mình với tinh thần thực sự cầu thị, kiên quyết khắc phục khuyết điểm, đồng thời phát huy ưu điểm, khẩn trương hành động với trách nhiệm cao nhất để đem lại những kết quả thiết thực trong cuộc sống. Việc Quốc hội đồng tình với báo cáo của Chính phủ đã tạo thêm niềm tin và quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra.
Nhân dân ta, đất nước ta đã từng đương đầu với những khó khăn thách thức lớn, từng đương đầu với lạm phát cao trong nhiều năm, nhưng nhờ cả nước đồng tâm hiệp lực, chúng ta đã vượt lên, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn trong hơn 20 năm qua.
Ngày nay, mặc dù đang gặp những khó khăn trước mắt, nhưng thế và lực của ta đã mạnh hơn rất nhiều, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn lớn. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, với sự ủng hộ của đồng bào cả nước, sự hỗ trợ, giám sát của Quốc hội trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm, Chính phủ tin tưởng rằng chúng ta sẽ thực hiện có kết quả mục tiêu phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục tạo lập các cơ sở, tiền đề cho sự phát triển bền vững vào những năm sau.
Xin chúc sức khoẻ các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào.
Xin cảm ơn Quốc hội.
[1] Cụ thể là: năm 2004, giá lương thực, thực phẩm tăng 15,6% trong khi giá tiêu dùng tăng 9,5% so với tháng 12 năm trước; năm 2005, giá lương thực, thực phẩm tăng 10,8% trong khi giá tiêu dùng tăng 8,4%; năm 2006, giá lương thực, thực phẩm tăng 7,9%, giá tiêu dùng tăng 6,6%. Đặc biệt, năm 2007 và 5 tháng năm 2008, giá lương thực, thực phẩm tăng mạnh kéo theo giá tiêu dùng các thời kỳ này tăng cao. Năm 2007, giá lương thực, thực phẩm tăng 18,92%, giá tiêu dùng tăng 12,63%; 5 tháng đầu năm 2008, giá lương thực tăng 52,88%, giá tiêu dùng tăng 15,96% so với tháng 12 năm 2007. Như vậy, giá lương thực thực phẩm tăng tác động rất lớn đến chỉ số giá tiêu dùng.
[2] Theo tính toán trên mặt bằng giá tháng 5, nếu giá lương thực chỉ tăng ở mức bằng tháng 4 là 6,11% thì chỉ số tăng giá tháng 5 sẽ là 2,08% và 5 tháng là 13,9%.
[3] Muốn kéo nhanh lạm phát xuống thấp, cần đưa giá lương thực xuống thấp, việc này có thể làm được bằng đánh thuế cao xuất khẩu gạo hoặc giảm mạnh lượng xuất khẩu, nhưng như vậy sẽ làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng nhập siêu, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống nông dân, không khuyến khích người trồng lúa, ảnh hưởng đến an ninh lương thực. Cũng tương tự như vậy, việc cắt giảm đầu tư là rất cần thiết để giảm lạm phát, nhưng nếu cắt giảm đầu tư quá mức sẽ gây mất nhiều việc làm, tạo thêm những phức tạp về an sinh xã hội; thắt chặt tiền tệ thái quá có thể ảnh hưởng đến tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, dễ dẫn đến những rối loạn không đáng có.
[4] Tại kỳ họp thứ 2, Chính phủ đã trình Quốc hội phương án phát hành vốn trái phiếu Chính phủ trong kế hoạch năm 2008 là 37.000 tỷ đồng.
[5] Hệ số ICOR (tiếng Anh là Incremental Capital Output Ratio) là hệ số gia tăng của vốn đầu tư toàn xã hội so với tăng trưởng kinh tế. ICOR = Vốn đầu tư trong kỳ/GDP tăng thêm. Hệ số ICOR phản ánh, để có một đồng tăng trưởng kinh tế thì cần bao nhiêu vốn đầu tư hoặc để tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư; trên cơ sở đó, có thể dự kiến được nhu cầu vốn đầu tư của xã hội cần phải huy động để có thể đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định.
[6] Hệ số ICOR của Hàn Quốc giai đoạn 1961 - 1980 là 3,0; Đài Loan (1961 - 1980): 2,7; Indonesia (1981 - 1995): 3,7; Thái Lan (1981 - 1995): 4,1; Malaysia (1981 - 1995): 4,6; Trung Quốc (2001 - 2006): 4,0. Thời kỳ 2004 - 2007, hệ số ICOR của Indonesia: 4,2 - 4,5; Thái Lan: 3,9 - 5,5; Malaysia: 3,5 - 4,7.
[7] Không kể 4 ngân hàng thương mại nhà nước, 1 tập đoàn và 4 tổng công ty đã hoàn thành cổ phần hóa; tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước hoạt động theo cơ chế riêng và một số tổng công ty chưa có báo cáo tài chính.
[8] Có 5 tổng công ty thua lỗ là: Tổng công ty Dâu tằm tơ, Tổng công ty Muối, Tổng công ty miền Trung, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Đường thuỷ.
[9] Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
[10] Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba, Khóa IX của Đảng.
[11] Nhất là sắt thép (tăng 106% và bằng lượng nhập cả năm 2007), ô tô dưới 12 chỗ ngồi tăng 12 lần; linh kiện, phụ tùng ô tô, xe gắn máy tăng từ 2 - 4 lần, nhập khẩu vàng tăng gấp 8 lần so với cùng kỳ.
[12] Nếu lấy bình quân giá dầu thô thế giới nửa tháng gần đây (128 USD/thùng) và giữ ổn định giá bán trong nước như hiện nay thì mức lỗ cả năm ước là 40.600 tỷ đồng, nếu lấy giá bình quân 5 ngày gần đây, từ 23 - 27 tháng 5 là 132 USD/thùng thì mức lỗ cả năm ước khoảng 44.800 tỷ đồng.
[13] Sản lượng lúa đưa vào cân đối nguồn cung (cho 2 tháng cuối năm 2007 và 4 tháng đầu năm 2008) là 19,8 triệu tấn, sau khi trừ tiêu dùng trong nước 6 tháng khoảng 14,8 triệu tấn.
[14] So với vụ Đông Xuân năm trước, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long chi phí thuốc sâu tăng 49,2%, chi phí bơm tưới tăng 66,3%, phân bón tuỳ theo từng loại tăng từ 41,7 - 360%, giá công lao động tăng 31,4%. Mỗi kg thóc ở đồng bằng sông Cửu Long nông dân lãi khoảng 2.000 - 2.500 đồng.
[15] như: đề nghị kéo dài thời gian việc thực hiện Chương trình 134 đến năm 2010; chống tái nghèo, xây dựng chuẩn nghèo mới; sắp xếp ổn định dân cư, trong đó có dân di cư tự do; hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào Khơ-me; tăng mức hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh trong đó tăng nguồn hỗ trợ từ ngân sách trung ương; vấn đề học sinh bỏ học khi chuyển từ trường bán công sang tư thục; chế độ đối với cán bộ cơ sở, trong đó có vấn đề biên chế bác sĩ cấp xã; tạo việc làm mới phải đi liền với giải quyết thất nghiệp; hỗ trợ sản xuất đời sống của đồng bào địa phương từ nguồn cổ phần hoá công trình thuỷ điện trên địa bàn; chú trọng đào tạo con em đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là bậc mầm non; quan tâm đến cuộc sống công nhân lao động trong các khu công nghiệp tập trung; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo và đào tạo lại công nhân; cơ chế đặc thù xoá nghèo cho 58 huyện nghèo nhất nước.
[16] Chuẩn nghèo ban hành năm 2005 được áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010. Theo chuẩn này thì hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình quân dưới 200 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và dưới 260 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
[17] Năm 2003 giá tiêu dùng tăng 3%; trong đó giá lương thực, thực phẩm tăng 2,8%. Các năm khác lần lượt: 2004 là 9,5% và 15,6%; 2005 là 8,4% và 10,8%; 2006 là 6,6% và 7,9%; năm 2007 là 12,63% và 18,92%; 5 tháng đầu năm 2008 là 15,96% và 26,56%.
[18] Kết luận số 22-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 04 tháng 4 năm 2008 về một số vấn đề về kinh tế - xã hội quý I năm 2008 cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có ghi “Điều chỉnh lộ trình tăng lương sớm hơn theo đề án để giảm bớt khó khăn cho cán bộ, công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và công nhân sản xuất trong các doanh nghiệp”.