Thứ Ba, 24/09/2024 01:26 SA
Công tác dân số trong tình hình mới: Nhiều việc phải làm
Thứ Sáu, 31/05/2019 14:57 CH

Cán bộ y tế huyện Sông Hinh khám sức khỏe cho người dân trong chiến dịch CSSKSS năm 2019 - Ảnh: KIM CHI

Thời gian qua, thành công của chính sách DS-KHHGĐ đã hạn chế được bùng nổ dân số; hình thành cơ cấu dân số “vàng”; chất lượng dân số được nâng lên… qua đó tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những thách thức mới đã nảy sinh: Mức sinh rất khác biệt giữa các vùng, các tỉnh, thành phố; mất cân bằng giới tính ở trẻ em đã ở mức nghiêm trọng; di dân diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số.

 

Trên cơ sở nhận thức đầy đủ và sâu sắc những xu hướng mới của dân số cũng như tác động to lớn của những xu hướng này đến sự phát triển bền vững của đất nước, Nghị quyết 21 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã xác định 5 quan điểm nền tảng cho công tác dân số hiện nay, trong đó đặc biệt chỉ rõ phương hướng: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.

 

Nhiều thách thức

 

Có thể thấy rằng, hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu của Nghị quyết 21 rất rộng lớn. Những cơ hội và thách thức trong việc thực hiện 6 nhóm mục tiêu do Nghị quyết 21 đề ra, cụ thể là:

 

Duy trì mức sinh thay thế: Thách thức hiện nay là mức sinh giữa các khu vực, các vùng chênh lệch khá lớn. Vì vậy, Đảng chủ trương “tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”. Do đó, việc xây dựng các giải pháp phù hợp với từng vùng, từng tỉnh sao cho vừa đảm bảo duy trì vững chắc mức sinh thay thế, vừa tiến tới đồng đều về mức sinh trên phạm vi cả nước là yêu cầu đồng thời là thách thức lớn của công tác dân số hiện nay.

 

Đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên: Ở Việt Nam, mất cân bằng giới tính khi sinh được ghi nhận vào năm 2006, khi trong số trẻ em sinh ra trong năm, cứ 100 bé gái thì tương ứng có tới 110 bé trai. Sự mất cân bằng này đang tăng lên và đã ở mức nghiêm trọng. Năm 2016, tỉ số này lên tới 112,8 bé trai/100 bé gái. Năm 2018 là 115,1 bé trai/100 bé gái.

 

Nếu xu hướng mất cân bằng giới tính khi sinh tiếp tục diễn ra, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam trong độ tuổi trưởng thành, nam giới sẽ nhiều hơn nữ khoảng 2,3-4,3 triệu người. Hậu quả chính là sự khủng hoảng về hôn nhân, phá vỡ cấu trúc gia đình, gia tăng tội phạm mua bán phụ nữ, tệ nạn mại dâm, gây bất ổn xã hội và khó khăn trên thị trường lao động…

 

Tuy nhiên, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh hiện nay mới chỉ tập trung ở một số khu vực, điển hình là vùng đồng bằng Sông Hồng. Điều này đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú ý đề cập trong chính sách, pháp luật để điều chỉnh. Theo đó, việc xóa bỏ tâm lý, tập quán muốn có con trai “nối dõi tông đường”, kiểm soát việc lạm dụng kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi là việc làm khó, không thể thay đổi trong “một sớm, một chiều”, đòi hỏi đồng bộ nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài; sự nỗ lực kiên trì, liên tục và mạnh mẽ của toàn xã hội.

 

Tận dụng hiệu quả cơ cấu “dân số vàng”: Một quốc gia có cơ cấu “dân số vàng” khi tỉ lệ những người trong độ tuổi từ 15-64 chiếm 66% trở lên. Năm 2007, tỉ lệ này ở nước ta đã đạt 66% (bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu dân số “vàng”) và hiện nay, tỉ lệ này xấp xỉ 70%. Mỏ vàng không khai thác thì còn, cơ cấu “dân số vàng” không khai thác thì sẽ mất (vào khoảng năm 2040). Vì vậy, cần tích cực tận dụng cơ hội này để phát triển nhanh và bền vững đất nước.

 

Thích ứng hóa với già dân số: Năm 2011, dân số 60 tuổi trở lên của nước ta là 10%, nghĩa là Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hóa. Theo dự báo, Việt Nam sẽ có dân số già vào năm 2035, khi tỉ lệ này tăng lên tới 20% với khoảng 21 triệu người cao tuổi. Vì vậy, thích ứng với già hóa dân số là một thách thức lớn hiện nay, nhất là trong điều kiện Việt Nam già hóa nhanh.

 

Phân bổ dân số hợp lý và quản lý dân cư: Công nghiệp hóa và kinh tế thị trường đang thúc đẩy di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Từ năm 2004-2009, đã có gần 7 triệu người di cư, tăng 50% so với giai đoạn 1994-1999, góp phần làm tăng tỉ lệ dân đô thị trong khoảng 15 năm trở lại đây và đẩy mạnh xu hướng tập trung dân số vào một số thành phố, vùng lãnh thổ.

 

Cùng với việc điều hòa để phân bố dân số hợp lý trên phương diện kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, những biến đổi dân số mạnh mẽ, nhanh chóng cũng đặt ra yêu cầu và thách thức khi xây dựng hệ thống thông tin quản lý dân cư phù hợp, linh hoạt, cập nhật và chính xác.

 

Nâng cao chất lượng dân số: So với thế giới, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta vẫn còn thấp. Bệnh tật liên quan đến di truyền còn cao. Trong số các dị tật, có các bệnh phổ biến như: Down, hội chứng Ewards, dị tật ống thần kinh, suy giáp bẩm sinh, thiếu men G6PD, tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, tan máu bẩm sinh (Thalassemia) thể nặng và các bệnh lý di truyền, dị tật bẩm sinh khác. Việt Nam chưa lọt được vào tốp 100 nước phát triển nhất, chưa rút ngắn được khoảng cách so với các nước trên thế giới. Trong đó, năng suất lao động vẫn là thành tố yếu nhất khi nói đến chất lượng dân số. Điều này cho thấy những thách thức lớn lao trong việc đạt được mục tiêu “nâng cao chất lượng dân số”.

 

Người dân khám sàng lọc sơ sinh, góp phần hạn chế dị tật bẩm sinh ở trẻ - Ảnh: KIM CHI

 

Một số nhiệm vụ cấp bách

 

Để thực hiện thành công Nghị quyết 21, cùng với triển khai đồng bộ hệ thống 7 giải pháp mà nghị quyết đã xác định (bao gồm các giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo; truyền thông thay đổi hành vi; xây dựng pháp luật và chính sách; củng cố và phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ; đầu tư và quản lý tài chính; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hợp tác quốc tế), trước mắt, cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cấp bách sau:

 

Một là, quán triệt sâu rộng những nội dung trong Nghị quyết 21. Cần nhận thức rõ tình hình mới của công tác dân số không chỉ ở Trung ương mà còn ở từng địa phương; không chỉ là những xu hướng mới của dân số mà còn là điều kiện mới về kinh tế, xã hội, pháp luật, kỹ thuật… Đặc biệt, cần nắm chắc hệ thống 6 mục tiêu tổng quát và 23 chỉ tiêu cụ thể của chính sách dân số mới. Những mục tiêu này bao trùm cả quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số nên rộng lớn hơn rất nhiều so với mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, năm 1993 (chỉ có một mục tiêu).

 

Những mục tiêu này cũng chính là cụ thể hóa bước chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển. Tuy nhiên, tình hình dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội ở các vùng, các tỉnh có nhiều điểm khác nhau. Vì vậy, mỗi địa phương cần sắp xếp thứ tự ưu tiên trong việc thực hiện mục tiêu và vận dụng sáng tạo 7 giải pháp mà Nghị quyết 21 đề ra.

 

Hai là, khẩn trương xây dựng và ban hành chiến lược, pháp luật và chính sách dân số cho giai đoạn mới. Ngày 31/12/2017, Chính phủ đã có Nghị quyết 137/NQ/CP về ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới (Nghị quyết 137).

 

Th.S NGUYỄN DOÃN TÚ 

Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek