Theo quy định của Điều 44 Luật Khuyết tật quy định những đối tượng khuyết tật được trợ cấp xã hội hàng tháng là: “Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều 45 của luật này; người khuyết tật nặng”. Theo đó, quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì có hai đối tượng bị khuyết tật được hưởng trợ cấp, hỗ trợ kinh phí hàng tháng là:
+ Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Đây là đối tượng có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61-80%. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng bị khuyết tật nặng được trợ cấp hàng tháng với hệ số 1.5. Nếu người khuyết tật nặng là người già, trẻ em thì được hưởng hệ số 1.5 (hệ số 1 là 180.000 đồng).
+ Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Đây là đối tượng không có khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Mức trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật nặng là hệ số 2.0. Nếu là người khuyết tật đặc biệt nặng là người già, trẻ em thì được hưởng mức hệ số trợ cấp là 2.5. Nếu người khuyết tật ở nhiều thành phần thì được hưởng cao nhất.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì tiêu chí xác định đối tượng trợ cấp chỉ dừng lại ở mức độ khuyết tật mà không đề cập đến vấn đề hoàn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản, tình trạng thân nhân.
LÊ HOÀNG (giới thiệu)