“Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Câu ca ấy sống mãi cùng năm tháng đi suốt chiều dài lịch sử kể từ buổi các vua Hùng dựng nước, lập nên nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
![]() |
Lễ hội Đền Hùng - Ảnh: T.LONG |
SỰ TÍCH HÙNG VƯƠNG TRONG SÁCH SỬ
Với những công trình nghiên cứu khoa học, lịch sử và khai quật các di chỉ khảo cổ xung quanh khu vực núi Hùng (xã Hy Cương, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) đã minh chứng hàng ngàn năm trước dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng và một số địa danh phụ cận là đất phát tích của người Việt Nam. Nơi đây đã ra đời một kinh đô đầu tiên, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và Đền Hùng là nơi thờ tự 18 đời vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt.
Trong “Đại Việt sử lược” có ghi: “Thời Trang Vương nhà Chu (năm 696-682 trước Công nguyên) ở Bộ Gia Ninh có dị nhân dùng yêu thuật áp phục được các bộ lạc tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang. Truyền 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Ngọc phả Hùng Vương soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470) có một đoạn nói về việc Hùng Vương chọn đất đóng đô: “Ngàn núi cúi chầu về, vạn sông quy tụ lại, thảy đều quay chầu về Nghĩa Lĩnh. Vương nhận ra đất này là đất tốt bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Ngoại vi Nghĩa Lĩnh lập đô thành Phong Châu”. Lật lại những trang sử trong “Đại nam nhất thống chí’’ - Quốc sử quán triều Nguyễn cũng thấy chép rằng: Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, nay là huyện Bạch Hạc.
Trong các truyền thuyết của người Việt có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến thời đại của các Vua Hùng được truyền lại trong dân gian đến ngày nay. Chuyện Hùng Vương kén rể và thiên tình sử mối tình tay ba Sơn Tinh - Thủy Tinh với nàng Mỵ Nương công chúa; chuyện công chúa Tiên Dung với Chử Đồng Tử; sự tích bánh chưng, bánh dày gắn với tích Hùng Vương chọn người truyền ngôi báu; tích rước chúa gái về nhà chồng... hay những tên làng quê cổ: Minh Nông nơi có ngày hội xuống đồng diễn lại tích Hùng Vương dạy dân cấy lúa; Thậm Thình tiếng chày giã gạo, dấu tích của đền đài cung phủ, các tên gọi lầu Thượng, lầu Hạ, An Thái, Phượng Lâu, Cẩm Đội gắn với các sự tích Hùng Vương.
ĐỀN HÙNG - NƠI PHÁT TÍCH CỘI NGUỒN DÂN TỘC VIỆT
Đã từ nhiều năm kể từ ngày khai sinh ra nước Việt
Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Hùng có các lăng tẩm, đền chùa ở 3 khu vực do nhân dân của 3 làng cổ là làng Cả, làng Vi và làng Triệu Phú (làng Trẹo) xây dựng. Trong đó đền Trung còn gọi là “Hùng Vương Tổ miếu” được làm đầu tiên. Đây là nơi các vua Hùng cùng Lạc hầu, Lạc tướng bàn việc nước, là nơi Lang Liêu dâng bánh chưng, bánh dày và được lên ngôi kế vị... Làng Cả xây dựng Đền Thượng tại nơi mà các Vua Hùng lập Đàn tế trời đất cầu mưa thuận gió hòa mang lại ấm no cho muôn dân. Kề bên Đền Thượng dân làng Cả còn lập miếu thờ Tổ Hùng Vương thứ 6 (còn gọi là lăng mộ Tổ). Làng Vi xây dựng đền Hạ và chùa “Thiên Quang thiền tự”, phía trước dựng gác chuông. Đền Hạ thờ Mẫu Âu Cơ (mẹ Tiên) nơi tục truyền mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng, nở ra 100 người con. Dân tộc Việt có dòng dõi Tiên Rồng là từ huyền thoại này. Dưới chân núi Hùng có giếng Ngọc là nơi hai nàng công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa thường soi gương chải tóc đã được dân xóm Phân Trà xây dựng đền Giếng để thờ 2 nàng.
Mỗi một địa danh trên đất Phú Thọ, đặc biệt là dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng đều có tên gọi gắn với một tích cổ thời Hùng Vương. Tích Vua Hùng chọn đất đóng đô ở Bạch Hạc nơi hội tụ của 3 con sông cửa ngõ giao lưu đường thủy. Hàng năm vào mùa xuân trên bến sông này có ngày hội bơi chải diễn lại tích “Thổ lệnh Thạch Khanh” từ thời nhà Hùng. Ở Minh Nông diễn tích Vua Hùng dạy dân cấy lúa, đất Dữu Lâu có vườn trầu của nhà Vua; Hương Trầm nơi có cánh đồng mà Hoàng tử Lang Liêu trồng thứ lúa thơm làm bánh chưng, bánh dày; làng Quýt, Mộ Xy, lâu Thượng, Tiên Cát, Cẩm Đội (Thụy Vân)... Nếu như gắn kết giữa các tích cổ với các công trình khai quật mang tính khoa học thấy rằng huyền thoại và lịch sử về vùng đất này đan quyện với nhau để khẳng định Đền Hùng - Đất Tổ là điều có căn nguyên.
Không có một quốc gia nào trên thế giới lại có một khu di tích chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về cội nguồn dân tộc thiêng liêng như Đền Hùng. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên bền vững và sống mãi trong tâm thức của 54 dân tộc anh em trong cộng đồng người Việt truyền từ đời này sang đời khác đã làm nên sức mạnh phi thường, truyền thống của cả dân tộc Việt trên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và đấu tranh bảo vệ đất nước. Những năm 40 Hai Bà Trưng đã làm lễ tế Tổ thề đền nợ nước trả thù nhà ở Đền Hùng. Đến thời nhà Lý, Trần đã cho xây dựng mở mang các đền chùa. Thời nhà Đinh, mặc dù đóng đô ở Hoa Lư - Ninh Bình, song Đinh Bộ Lĩnh khi lên ngôi vẫn không quên cho viết thần tích Đền Hùng. Thời nhà Lê, Vua Lê đã cử Lễ Bộ Thượng Thư từ Kinh thành Thăng Long đi thị sát tới Đền Hùng trong dịp mở hội, phong cho làng Cổ Tích xã Hy Cương làm “con trưởng tạo lệ”, cho miễn các thứ thuế khóa để đầu tư cho trông nom thờ cúng Tổ Hùng Vương vào mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt khơi dậy và bền vững ngàn đời là vậy. Giỗ Tổ hàng năm là khát vọng tâm linh của mỗi người Việt Nam hướng về nguồn cội, nó thúc dục hàng triệu triệu con tim khối óc, già, trẻ, gái, trai khắp các vùng miền trong cả nước và Kiều bào ở nước ngoài tìm về. Đền Hùng trở thành điểm hội tụ cho ý chí đoàn kết cộng đồng của dân tộc Việt, là “hiện tượng lịch sử độc nhất vô nhị” trên thế giới. Thông qua các hoạt động ngày hội mở, khách thập phương như được tắm mình trong những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang bản sắc đặc trưng riêng biệt.
Với ý nghĩa đặc biệt đó, năm 2009, khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng đã được nhà nước xếp hạng di tích đặc biệt. Trước Quốc Giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng năm nay nhiều hạng mục của dự án đã được hoàn thiện. Các đền chùa, lăng tẩm trên núi cả được trùng tu về cơ bản đảm bảo nguyên tắc bảo tồn tính nguyên bản của di sản, đồng thời một khu vực rộng lớn phụ cận đặc biệt là hệ sinh thái rừng Đền Hùng cũng đã được khôi phục.
THĂNG LONG