Ai đến thăm Hồ Gươm, chắc sẽ nhớ ngọn tháp bút với 3 chữ tương truyền của cụ “Thần Siêu” - Nguyễn Văn Siêu (thế kỷ XIX) là “Tả thanh thiên”. Có nhiều cách hiểu, nhưng tôi thích cách hiểu “viết lên trời xanh” nhất, vì rất giàu tính gợi cảm.
Từ bấy đến nay, nào ai biết ai đã viết gì lên trời xanh!
Mới đây, cầm tập thơ “thinh không” của Đào Đức Tuấn, rồi đọc qua một lần, hầu như chẳng có gì để “kể” hay nhớ lại hết, quả thật là… thinh không. Tôi chợt liên tưởng, cụ Thần Siêu đã viết lên trời xanh thì đâu còn dấu vết nào ngoài ba chữ “tả thanh thiên” và một bầu hư không cho mọi người tự lấp chữ vào đó theo cách của mình. Có lẽ chính vì lẽ đó mà Đào Đức Tuấn cũng viết thơ mình vào thinh không chăng?
Tác giả Đào Đức Tuấn và tập thơ “thinh không” - Ảnh: HOÀNG CHƯƠNG |
Phải nói, “thinh không” là tập thơ khá ấn tượng, từ cách trình bày bìa của họa sĩ Trần Quyết Thắng, đến cách trình bày chữ và nội dung bên trong (không có chữ nào viết hoa theo quy tắc chính tả), rồi đến cách dùng từ cũng không có trong từ điển… Qua đây mới thấy một Đào Đức Tuấn “ngông”, “quậy”, phá cách với những dòng thơ không chịu theo lối mòn; còn thành công hay không lại là chuyện khác. Ở đây chỉ nói cái “lạ” của tập thơ này mà thôi.
Trước hết, người làm nghệ thuật nói chung và làm thơ nói riêng, càng về sau càng khó, bởi người đi trước đã làm, đã nói cả rồi. Nhưng để tránh điều khó đó, Đào Đức Tuấn có cái “khôn”, muốn ít nhọc công “cày sâu cuốc bẫm” mà vẫn có mùa hoa trái lạ không giống ai, bằng cách bám rễ ngay vào mảnh đất đã sinh ra mình là xứ Nẫu. Đào Đức Tuấn đã khai thác triệt để cách phát âm của người Phú Yên (vùng Bình Định cũng tương tự), là nguyên âm “ôi” đều đọc thành “âu”:
đất nước âu
tàu tới đây rầu
Và:
thời gian trâu
dòng đời trâu lồng lộng
Hoặc “ươi” đọc thành “ư”:
quy nhơn kia tui trở lại làm ngừ
Và, có thể tìm thấy rất nhiều câu tương tự.
Tiếp nữa là thỉnh thoảng, vẫn có những bài theo “truyền thống” lục bát, nhưng vẫn khá lạ với “khẩu vị” người đọc:
tương tư chấm với tương cà
để nghe trong bụng xót xa mịt mù
ta về xóa bớt thâm thù
trẻ người non dạ sao u mê đời
(dang dở)
Trong bài “thủy chung”, lại một kiểu bâng quơ khác;
có bông hoa nở nhiều lần
nhìn sao thêm một lần yêu
bông hoa trong veo vẫn phải đi tìm
tình tang tang tình tính tính
Chẳng ai biết tình tang tang tình là cái gì trong văn cảnh này, nhưng thấy ngồ ngộ, rồi thấy thích thú ở những câu cuối:
hoa hết mình hoa biết thủy chung
tri kỷ mùa nào cũng thiếu
thiên niên gì cũng cần tấc lòng
em bình minh xanh ta bình minh cười
em bình minh xanh ta bình minh cười, chẳng phải là rất thơ đó sao?
Có những bài, cách kết hợp từ không có trong từ điển, nhưng nhờ vậy mà tạo được dư âm với những “sung sũng”, “ngút ngường”, “ngừ dưng”, “rường rượng”:
mưa hờn mưa dỗi
hà tĩnh mênh mang
thôn làng sùng sũng
lạnh má hồng phai
lênh loang câu hò
ngút ngường thu mượn
lòng trai cao thấp
đậu hồn ngừ dưng
mưa cho hết buồn
tình cây nghiêng ngửa
lâm thâm cõi mình
sông la rường rượng
(qua mưa)
Tuy nhiên cũng có bài, Đào Đức Tuấn để lộ cái dễ dãi không đáng có đối với một người luôn có ý thức tránh sự sáo mòn:
ta không sống suông
mà có trách nhiệm
mà có hoài niệm
mà không ồn ào
Để kết bài này, có thể lẩy ra một bài trong tập làm đại diện cho cái lạ, cái bâng quơ, cái… không đâu vào đâu của “thinh không”:
có thể kết ở đây
có thể kết ở đâu
đã chấm mà không rầu
dòng chữ đời hoang hoang
ừ thì đây phẩy phẩy
tan man cái dấu dài
xuống hàng thâu chiều ạ
gió gạch ngang hun hun
(dấu)
Thực ra, với cách trình bày tập thơ và cách viết ấy cũng không phải của riêng Đào Đức Tuấn, mà từ thời “Xuân thu nhã tập” của Thơ Mới đến một số tập thơ trước năm 1975 đã có, và những năm gần đây cũng có. Cho nên, Đào Đức Tuấn “lạ” ở đây là lạ với những sáng tác “chân phương” mà người ta đã quen tiếp cận, như là một sự đổi món, chứ không lạ gì với những tác giả có xu hướng cách tân.
Quả thật, khi gieo chữ cứ 6 cứ 8, hoặc 5 với 5, 8 với 8…, nhịp nhịp nhàng nhàng, thì ngoài những bài thành công ra, còn đa phần chỉ thấy sự trơn nhẵn, phẳng lỳ trong mòn sáo. Đào Đức Tuấn đã có ý thức tránh chuyện mòn sáo ấy và tránh một cách hệ thống trong suốt tập thơ “thinh không”.
Nếu so với nước uống, những bài thơ nhịp nhàng vần điệu là loại nước ngọt nhiều đường, không ai có thể ngày nào cũng uống được; còn những bài thơ phá cách, gân guốc xù xì là loại trà đắng, không phải khẩu vị mọi người đều thích, nhưng rõ ràng vị đắng chát của nó cứ ngấm vào vị giác của những người mỗi sáng thích chiêu vài ngụm rồi khà, rồi chép, xong lại vội vội vàng vàng rời khay trà để bắt tay vào những công việc thường ngày…
HUỲNH VĂN QUỐC