Thứ Tư, 02/10/2024 00:29 SA
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở Việt Nam
Thứ Ba, 17/08/2010 13:00 CH

Cạnh tranh là hiện tượng và ưu điểm thuộc về nền kinh tế thị trường. Theo quan điểm chung của nhiều nhà kinh tế, môi trường cạnh tranh mang sức mạnh hướng các hành vi của các chủ thể kinh tế tới năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong môi trường cạnh tranh, sức mạnh của các tổ chức kinh tế không chỉ được đo bằng chính năng lực nội tại của từng chủ thể, mà quan trọng hơn, được đo bằng so sánh tương quan giữa các chủ thể với nhau. Tùy theo việc đo đếm năng lực của chủ thể nào, trong so sánh với ai, ở thị trường nào mà người ta sử dụng các thuật ngữ liên quan đến cạnh tranh khác nhau. Theo chúng tôi, có một số góc độ xem xét về cạnh tranh như sau:

 

bia100817.jpg

Dây chuyền sản xuất bia Sài Gòn tại Phú Yên - Ảnh: D.T.XUÂN

 

Góc độ thứ nhất là xem xét sức cạnh tranh của sản phẩm (bao hàm cả dịch vụ) của doanh nghiệp trên thị trường ngành. Ở góc độ này, sức cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng chất lượng, giá thành, uy tín của thương nhãn sản phẩm. Tuy nhiên, đó mới chỉ là các tiêu chí đo đếm năng lực sẵn có trong sản phẩm. Ngay ở giác độ cạnh tranh sản phẩm, thì sức cạnh tranh đã là một khái niệm tương đối, nó bao hàm không chỉ năng lực sẵn có của sản phẩm mà quan trọng hơn là tương quan của năng lực đó so với sản phẩm của doanh nghiệp khác, hoặc so với dung lượng thị trường (toàn bộ cầu về sản phẩm đó). Ngoài ra, sức cạnh tranh của sản phẩm còn phải được đo bằng cách so sánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó với năng lực cạnh tranh của các sản phẩm có thể thay thế sản phẩm đó trong tiêu dùng, có nghĩa là so sánh chéo với thị trường ngành khác, so sánh trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, tạo nên cái gọi là sức cạnh tranh quốc gia. Chưa hết, sức cạnh tranh của sản phẩm còn được đo trên quy mô thị trường thế giới để hình thành nên cái gọi là sức cạnh tranh quốc tế.

 

Góc độ thứ hai là xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trên thực tế doanh nghiệp nào cũng kinh doanh đa ngành, do đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp không những do sức cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp đem lại, mà còn do sức mạnh tổng thể của doanh nghiệp với tư cách một hệ thống. Các yếu tố tạo nên sức mạnh có tính hệ thống của doanh nghiệp là khả năng huy động các nguồn tài chính (bao gồm cả vốn sở hữu và vốn vay, là khả năng đổi mới và cải tiến công nghệ để có thể linh hoạt đáp ứng nhu cầu, là khả năng tổ chức có hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo hướng phát huy lao động sáng tạo của công nhân, giao hàng đúng hẹn, dịch vụ hoàn hảo sản phẩm sau bán hàng…, là các lợi thế về uy tín, khách hàng quen biết, bí quyết, địa điểm, ưu đãi do tổ chức khác mang lại… Có thể thấy, nếu khái niệm cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm đã phức tạp, thì khái niệm cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp còn phức tạp hơn nhiều lần. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được đo ở quy mô thị trường quốc gia và quốc tế.

 

Góc độ xem xét thứ ba là sức cạnh tranh của một quốc gia. Đây là một khái niệm cực kỳ phức tạp do tính đa chiều của nó. Chiều cạnh thứ nhất của sức cạnh tranh quốc gia là sức cạnh tranh của những sản phẩm chủ lực mà đất nước cung cấp trên thị trường thế giới. Chiều cạnh thứ hai là sức cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp do công dân của quốc gia đó sở hữu. Sức cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp không đơn thuần là con số cộng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp độc lập, mà nó là tổng hợp sức mạnh tạo nên do sự kết dính, hợp tác hoặc chống phá lẫn nhau giữa các doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau như tập đoàn, hiệp hội, phá giá… Với những cách kết hợp phù hợp thì sức cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp tăng lên, ngược lại sức cạnh tranh của hệ thống có thể giảm sút. Chiều cạnh thứ ba của sức cạnh tranh quốc gia là sự hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Bản thân khái niệm sức cạnh tranh của môi trường cũng bao hàm rất nhiều yếu tố cấu thành như nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng (bao gồm cả sự sẵn có, mức tiện lợi và chi phí), dịch vụ quản lý hành chính (bao gồm sự minh bạch, tính ổn định, tính dễ tiếp cận, mức độ đầy đủ, chi phí…), thuế, rào cản thị trường… Năng lực cạnh tranh của quốc gia do bản thân quốc gia tạo dựng nên, nhưng sức cạnh tranh của một quốc gia lại nằm trong tương quan so sánh giữa năng lực cạnh tranh của quốc gia này với quốc gia khác.

 

Mỗi góc độ xem xét cạnh tranh khác nhau đòi hỏi các phương pháp luận phân tích các yếu tố cấu thành sức cạnh tranh và nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh khác nhau. Có thế thấy, phân tích sức cạnh tranh là công việc rất phức tạp do tính phức tạp về cả nội hàm lẫn ngoại diên của nó. Ngoài ra, ở từng góc độ xem xét cạnh tranh chúng ta đều thấy có nhiều chủ thể tác động đan xen nhau nhằm gây ảnh hưởng đến sức cạnh tranh. Đó là tác động của người lao động với ý nghĩa khởi nguồn của sức sáng tạo làm nên năng lực cạnh tranh; là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp kết dính các nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp; là hệ thống luật pháp, bộ máy quản lý nhà nước và các giá trị xã hội làm nên sức mạnh của một quốc gia, là các cơ cấu tổ chức xã hội của doanh nghiệp tạo nên sức mạnh cạnh tranh của ngành… Bài viết này không có ý định nghiên cứu sâu về phương pháp luận nghiên cứu cạnh tranh nói chung mà chỉ xin nêu một vài suy nghĩ ban đầu về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.

 

1. Các phương pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

 

Như trên đã trình bày, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của sản phẩm và vào sức mạnh tổng thể của doanh nghiệp trong so sánh với các doanh nghiệp khác trên thị trường quốc gia hoặc quốc tế. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chúng ta phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Nói cách khác, về mặt lý thuyết, có thể nêu ra các cách thức sau đây giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh:

 

1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm

 

Về mặt nguyên tắc, sản phẩm chỉ có thể tồn tại trên thị trường khi có cầu về sản phẩm đó. Muốn sản phẩm của doanh nghiệp có thể tiêu thụ được, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường để luôn cung cấp những sản phẩm mà người tiêu dùng ưa chuộng cũng như cung cấp số lượng tương xứng với quỹ mua mà xã hội giành cho sản phẩm của mình. Ở đây có một số lưu ý. Thứ nhất, ngày nay các sản phẩm nói chung có vòng đời tương đối ngắn, kể cả các vật phẩm tiêu dùng lâu bền như các đồ dùng gỗ, điện tử, phương tiện đi lại… Người tiêu dùng luôn đòi hỏi sản phẩm phải có thêm nhiều chức năng mới, hình dáng, mẫu mã bắt mắt hơn và thay đổi theo thị hiếu, theo mức thu nhập, theo điều kiện sống… Do đó doanh nghiệp phải sẵn sàng sản phẩm mới để cung cấp, cũng như phải thường xuyên cải tiến sản phẩm cũ cho phù hợp với yêu cầu mới của người tiêu dùng. Để làm được như vậy, doanh nghiệp thường phải chí phí nhiều tiền của, thời gian và công sức để nắm bắt xu hướng thay đổi nhu cầu của thị trường, để nuôi dưỡng đội ngũ người lao động có khả năng sáng tạo mẫu mã mới cũng như để cải tiến, làm mới sản phẩm cũ. Công đoạn này trong doanh nghiệp thường được gọi là giai đoạn thiết kế và chúng cũng góp phần tạo ra nhiều giá trị gia tăng nhất cho doanh nghiệp. Ngày nay, ở các nước lạc hậu, khi khả năng thiết kế của doanh nghiệp còn ở trình độ thấp thì thay vì tự thiết kế, các doanh nghiệp có thể mua, thuê bản quyền thiết kế của các doanh nghiệp tiên tiến hơn theo các hình thức chuyển giao công nghệ hoặc gia công. Tuy nhiên, để góp phần tạo nên sức cạnh tranh cho sản phẩm thì việc mua bản quyền thiết kế có lợi hơn thuê, nhất là khi doanh nghiệp có khả năng cải tiến thiết kế đó để nó mang bản sắc riêng có của doanh nghiệp. Những sáng tạo thêm của doanh nghiệp sẽ tạo cho sản phẩm của doanh nghiệp một bản sắc riêng và nhờ đó tạo cho doanh nghiệp một thị trường độc quyền hạn chế nhờ tính khác biệt trong khả năng thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm của mình.

 

Phương thức thứ hai nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm là áp dụng các công nghệ phù hợp vừa đảm bảo tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa có chi phí sản xuất thấp. Cách thức để doanh nghiệp có thể làm chủ loại công nghệ đó là: 1, doanh nghiệp luôn là đơn vị đi đầu trong nghiên cứu, phát minh công nghệ của ngành. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có các cơ sở nghiên cứu mạnh về thiết bị, về nhân lực có trình phát minh cao và có hướng triển khai nghiên cứu hiệu quả. Hoạt động phát minh đòi hỏi chi phí tốn kém và có độ rủi ro cao nên chỉ có các doanh nghiệp có quy mô lớn và tiềm lực tài chính mạnh mới có thể đảm đương; 2, doanh nghiệp có khả năng chuyển giao công nghệ từ tổ chức khác và cải tiến để nó trở thành công nghệ đứng đầu. Đây là con đường thích hợp với mọi loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, để chuyển giao công nghệ hiệu quả, doanh nghiệp phải có kinh nghiệm và kỹ năng hoạt động trên thị trường công nghệ thế giới, có đội ngũ người lao động sáng tạo và có môi trường doanh nghiệp khuyến khích sáng tạo.

 

Phương thức thứ ba nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cách thức bao gói sản phẩm thuận tiện và khả năng giao hàng linh hoạt, đúng hạn. Trong môi trường cạnh tranh hiện đại, mức độ tiện lợi trong mua, bảo quản, sử dụng sản phẩm trở thành tiêu chuẩn rất quan trọng để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp. Vì thế, nghiên cứu tìm ra quy mô bao gói thuận tiện trong quá trình sử dụng, tìm ra cách thức bao gói không những đáp ứng yêu cầu vệ sinh mà còn có giá trị thẩm mỹ cao, phù hợp với thị hiếu của khách hàng mục tiêu là cách thức các doanh nghiệp thường dùng trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản phẩm của mình. Ngoài ra, trong nhịp sống nhanh của xã hội hiện đại, thời gian là vốn quý của tất cả mọi người, nhu cầu của người tiêu dùng nếu được thỏa mãn đúng lúc thì lợi ích mà họ thu được từ sản phẩm sẽ lớn hơn, sức hấp dẫn của sản phẩm nhờ đó mà tăng lên. Chính vì thế, các doanh nghiệp ngày nay đều tìm các phương thức giao hàng tiện lợi, thoải mái, tốn ít thời gian và đặc biệt là đúng hẹn để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Thương mại điện tử, hệ thống giao hàng tại nhà theo đặt hàng điện thoại, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hiệu quả… là những cách thức giúp doanh nghiệp phục vụ và giữ khách hàng hiệu quả.

 

1.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm

 

Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao hơn, giá cả thấp hơn, dịch vụ bán hàng tiện lợi hơn so với các đối thủ khác thì doanh nghiệp tất nhiên giành được thị phần xứng đáng. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày, khách hàng có thể thích mua hàng hóa ở cửa hàng gần nhà mình, thích tiêu dùng sản phẩm mà họ đã chứng nghiệm là phù hợp với họ, tiêu dùng nhiều loại sản phẩm mà họ hiểu biết về nó nhiều hơn, hoặc ưu tiên mua hàng hóa trong các cửa hàng sang trọng… Để tiêu thụ hết số lượng sản phẩm tối ưu của mình, các doanh nghiệp phải tìm cách tận dụng các sở thích tiêu dùng của khách hàng thông qua hoạt động chiếm lĩnh các điểm bán hàng tối ưu, thông qua quảng cáo sản phẩm đến nhiều người tiêu dùng nhất, giới thiệu sản phẩm để khách hàng dùng thử, đa dạng hóa chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm và chi phí bán hàng để tận dụng hết các phân đoạn thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp còn câu kết với các doanh nghiệp khác thông qua hệ thống đại lý, liên doanh, mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở những nơi có nhu cầu để mở rộng tối đa thị phần cho sản phẩm của mình.

 

1.3. Tăng năng lực của doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, công nghệ, nhân lực, quản lý

 

Sức cạnh tranh của doanh nghiệp do chính sức mạnh về tài chính, công nghệ, nhân lực và khả năng quyết sách đúng, linh hoạt của doanh nghiệp quy định. Ngày nay, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp không chỉ so tiềm lực tài chính của chủ sở hữu doanh nghiệp quy định, mà ở mức độ lớn hơn, do uy tín của doanh nghiệp đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng quy định. Nếu có uy tín, doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nguồn tài chính to lớn tài trợ cho các dự án hiệu quả của mình. Nếu không có uy tín, để vay được vốn, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện khắt khe, hoặc huy động được ít, hoặc lãi suất huy động cao. Trên thị trường tài chính, uy tín của doanh nghiệp do quy mô tài sản, do truyền thống làm ăn đứng đắn và hiệu quả, do các quan hệ đối tác lành mạnh… quy định. Nói cách khác, để tích cóp năng lực cạnh tranh cho chính mình, doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược làm ăn chân chính, hiệu quả, lâu dài và luôn giữ gìn uy tín doanh nghiệp như tài sản vô giá của doanh nghiệp.

 

Để có đội ngũ nhân lực có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo và giữ người tài. Tất nhiên, trong xã hội hiện đại, nhà nước và cá nhân người lao động có vai trò quyết định trong đào tạo nguồn nhân lực. Nhưng đào tạo của xã hội là đào tạo chung. Để nâng cao năng suất lao động và tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo trong từng doanh nghiệp, thì mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo tay nghề chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu của mình. Do đó, chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo hiệu quả chính là một trong những phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, doanh nghiệp cũng thường chú trọng tới việc xây dựng chính sách đãi ngộ thích hợp để giữ ổn định lực lượng lao động của mình. Ngoài chính sách lương, thưởng hợp lý, doanh nghiệp còn sử dụng các yếu tố văn hóa như lòng tự hào, sự quan tâm và phúc lợi để giữ chân người lao động giỏi.

 

Về phần công nghệ, nếu doanh nghiệp giữ bản quyền phát minh hoặc có bí quyết riêng thì thị trường sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có tính độc quyền hợp pháp. Do đó năng lực nghiên cứu phát minh và các phương thức giữ gìn bí quyết là yếu tố quan trọng tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, các doanh nghiệp đều có xu hướng thành lập các phòng thí nghiệm, nghiên cứu ngay trong lòng doanh nghiệp. Đề ra các chính sách hấp dẫn để thu hút người tài làm việc cho doanh nghiệp cũng là hướng được doanh nghiệp sử dụng. Ngoài ra, tạo môi trường thuận lợi cho từng người lao động phát huy sáng kiến cá nhân trong công việc của họ cũng là hướng mà nhiều doanh nghiệp ưu tiên.

 

Quyết sách của giới quản lý cũng là yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua tác động đến uy tín, hiệu quả, khả năng đổi mới và thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp. Ngày nay thị trường cán bộ quản lý cao cấp đã hình thành, tuy nhiên số cán bộ quản lý tài giỏi luôn ít hơn nhu cầu. Vì thế, bản thân doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và đào tạo cán bộ quản lý cho chính mình. Muốn có được đội ngũ cán bộ quản lý tài giỏi và trung thành, ngoài yếu tố chính sách đãi ngộ, doanh nghiệp phải định hình rõ triết lý dùng người, phải trao quyền chủ động cho cán bộ và phải thiết lập được cơ cấu tổ chức đủ độ linh hoạt, thích nghi cao với sự thay đổi. Tổng hợp các năng lực tài chính, nhân sự và công nghệ là tỉ lệ và quy mô sinh lợi của doanh nghiệp. Nếu cả hai tiêu chí tỉ suất và khối lượng lợi nhuận đều khả quan thì doanh nghiệp có thêm sức mạnh tiềm tàng để hạ giá, để chia xẻ lợi nhuận cho đối tác, để đầu tư cho nghiên cứu, tiếp thị… và do đó gián tiếp làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

 

Nói tóm lại, nuôi dưỡng sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp là công việc phức tạp, đa dạng, liên tục và lâu dài. Xây dựng được vị thế cạnh tranh mạnh rất khó, nhưng nếu không biết cách giữ nó một cách đúng đắn thì vị thế đã có thể suy giảm theo thời gian. Chính vì vậy, các phương thức nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng luôn biến đổi linh hoạt theo thời gian và môi trường.

 

tan-duoc100817.jpg

Sản xuất tân dược tại nhà máy của Công ty cổ phần PYMEPHARCO. - Ảnh: N.TRƯỜNG

 

2. Một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

 

Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như tri thức của loài người đã chỉ ra rằng, kinh tế thị trường là một cấu trúc xã hội tiên tiến, phù hợp với trình độ xã hội loài người hiện tại. Thông qua cấu trúc và các nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường, yêu cầu về phối hợp và chuyên môn hóa được thực thi một cách hiệu quả. Động lực đem tới hiệu quả cho kinh tế thị trường chính là cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thực tế, do tính đặc thù của một số lĩnh vực và quan hệ, kinh tế thị trường tự do cạnh tranh không thể bao quát hết các góc cạnh của xã hội. Hơn nữa, một sự cạnh tranh không bị kiềm chế bằng các quy tắc xã hội nhân văn sẽ dẫn đến độc quyền thái quá hoặc các mất cân đối cục bộ do thông tin không hoàn hảo. Xã hội hiện đại đã tìm ra mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, trong đó thị trường là chủ đạo, nhưng nhà nước có vai trò hỗ trợ tích cực trong những lĩnh vực mà thị trường không thể giải quyết hoặc giải quyết không hiệu quả. Nói cách khác, vai trò hàng đầu của nhà nước vẫn là tạo ra một môi trường pháp lý, xã hội, kinh tế cho phép kinh tế thị trường phát huy được các tác dụng của nó.

 

Đứng trên góc nhìn của doanh nghiệp thì cạnh tranh là một tất yếu khách quan, là thuộc tính của môi trường trong đó doanh nghiệp tồn tại. Xét về lợi ích, cạnh tranh là động lực buộc doanh nghiệp phải nỗ lực tìm kiếm sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, phải tìm ra cách thức sản xuất có chi phí xã hội chấp nhận được, đồng thời là cuộc đua tranh để tiến đến vị trí của người giỏi nhất. Xét về thách thức, cạnh tranh là một áp lực mà doanh nghiệp, nếu không có đủ sức mạnh vượt qua, thì sẽ phải gánh chịu các hậu quả không mong muốn như mất vị trí đầu tiên trên thị trường, hàng hóa ế đọng, thua lỗ, mất vốn, thậm chí có thể phá sản. Do đó đạt được vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp. Nhất là trong thời đại thương mại tự do đang thắng thế trên quy mô thế giới hiện nay thì vị thế cạnh tranh tốt chính là điều kiện đầu tiên cho phép doanh nghiệp tồn tại và phát triển.

 

Ở nước ta quan niệm phổ thông này chưa phải đã được thừa nhận. Nhà nước vẫn còn ý muốn che đỡ, làm thay cho thị trường. Thậm tệ hơn, đôi lúc, đôi người còn muốn gạt quan hệ thị trường ra bên, níu kéo quan hệ bao cấp, xin - cho, cấp phép cho các hoạt động của doanh nghiệp. Trên thực tế, kinh tế thị trường chính là tự do của người dân với tư cách người mua và người bán. Trên cơ sở lợi ích của mình, người mua và người bán phải được quyền quyết định làm gì có lợi cho họ. Theo nguyên tắc trao đổi thỏa thuận thì cạnh tranh chính là động lực để xã hội lựa chọn cách làm tối ưu hơn, sản phẩm phù hợp hơn và người cung ứng sản phẩm tốt hơn. Do đó, một cách tốt nhất là Nhà nước ta nên tạo ra một khung khổ pháp lý cho các hành vi cạnh tranh lành mạnh có điều kiện phát triển, tạo chế tài ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh phi hiệu quả, phi lý, phi đạo đức xã hội. Mặt khác, nên hỗ trợ cho thị trường bằng cách đưa ra các phương tiện chuẩn hóa để đo lường giá trị trong thị trường như đồng tiền, chất lượng hàng hóa, nghiêm túc trong thực thi cam kết và đáp ứng nghĩa vụ liên quan… hơn là can thiệp vào các hành vi trao đổi mua bán của công dân. Ngoài ra, nhà nước cần tích cực hoạt động trong các lĩnh vực thị trường bỏ trống hoặc thị trường bất lực để tạo nên một xã hội hài hòa về các phương diện công bằng, an toàn, giá trị đạo lý và văn hóa…

 

Trên cơ sở mô hình nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình ý chí cạnh tranh và buộc phải đương đầu với cạnh tranh không khoan nhượng cả ở quy mô quốc gia, quốc tế và khu vực. Mặc dù các biện pháp bảo hộ khéo léo cho doanh nghiệp quốc gia của nhà nước vẫn còn, nhưng quy mô và hiệu lực của những hoạt động bảo hộ đó ngày càng thu hẹp. Nói cách khác, đã đến lúc các doanh nghiệp của Việt Nam phải vào cuộc cạnh tranh quyết liệt và sự sống còn của doanh nghiệp và của nền kinh tế đất nước giờ đây nằm trong tay doanh nghiệp.

 

Là một nước đi sau, doanh nghiệp Việt Nam có thể thông qua các bài học của doanh nghiệp nước khác nhằm tìm những gợi ý cho thành công cũng như để tránh được sai lầm. Tuy nhiên, ngày nay hoàn cảnh kinh tế thế giới đã thay đổi, Việt Nam không phải là Nhật Bản hay Hàn Quốc, do đó phương thức mà các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn để cạnh tranh thắng lợi cũng có nhiều điểm không thể tìm thấy trong lịch sử. Căn cứ vào kinh nghiệm đã có và thực tiễn kinh tế ngày nay, có thể gợi ý các hướng suy nghĩ về cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam như sau:

 

Thứ nhất, thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước và thị trường thế giới đã tương đối tự do. Chính vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng chiến lược cạnh tranh của mình trên cơ sở lợi thế cạnh tranh xét ở quy mô thị trường thế giới. Nên sản xuất sản phẩm gì, nên tập trung chuyên môn hóa để đảm bảo chất lượng và giảm chi phí hay nên đa dạng hóa sản phẩm ngay từ đầu để tận thu thị trường và tránh rủi ro, những vấn đề đó phải được từng doanh nghiệp xử lý phù hợp với đặc thù của mình. Tuy nhiên, phải thấy rõ là doanh nghiệp nước ta, ngoài các sản phẩm có tính đặc sản, còn đứng cách rất xa các doanh nghiệp đứng đầu thế giới về kỹ thuật và quy mô sản phẩm, nên chiến lược lựa chọn chỉ nên một trong hai cách: hoặc chuyên môn hóa sản phẩm hẹp trong mạng sản xuất toàn cầu của các công ty đa quốc gia, hoặc liên doanh, liên kết để sử dụng ưu thế của doanh nghiệp khác quốc tế hóa sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Việc tự mình làm mọi việc và đi từ đầu sẽ làm cho quãng đường cần đuổi kịp đối thủ cạnh tranh sẽ ngày càng dài thêm. Do đó, nên thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. Song lợi thế cạnh tranh của một đất nước cũng như của một doanh nghiệp có tính biến động rất lớn theo đà phát triển của tiến bộ kỹ thuật, của khoa học kỹ thuật và thậm chí của nhu cầu tiêu dùng. Chính vì thế, vấn đề của Việt Nam và của doanh nghiệp Việt Nam là phát hiện nhanh, khai thác nhanh mọi lợi thế so sánh trước khi chúng biến mất để tạo cơ sở tăng trưởng. Muốn vậy, phải tạo một không khí cạnh tranh tự do trong nước và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chỉ trong cọ xát với đối thủ cạnh tranh thì các tiềm năng vốn có mới được phát hiện và sử dụng triệt để.

 

Thứ hai, phải thông qua tăng cường cạnh tranh để tổ chức lại các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong tương quan thị trường, một doanh nghiệp tăng trưởng mạnh hơn thì sẽ lấy mất thị trường đã có hoặc sẽ có của doanh nghiệp khác. Nhờ đó, các doanh nghiệp có cách tổ chức mới, hiệu quả sẽ được thiết lập trên thị trường, các doanh nghiệp không thể thay đổi buộc phải rút khỏi thị trường làm cho nền kinh tế liên tục tiến về mục tiêu ngày càng hiệu quả hơn. Do đó, sát nhập, giải thể, phá sản là hiện tượng bình thường của kinh tế thị trường, không cần phải có sự can thiệp của nhà nước, trừ phi những sự can thiệp đó là để hạn chế các xu hướng phát triển quá khích đã nhìn thấy hoặc vì các mục tiêu xã hội đặc thù. Song, để hành vi của nhà nước không vi phạm nguyên tắc cạnh tranh, nhà nước nên tách bạch các hoạt động hỗ trợ, chuyển giao thu nhập từ ngân sách nhà nước cho các bộ phận dân cư khỏi các giao dịch hàng hóa thông thường. Nói cách khác, cần dùng cạnh tranh để đào luyện doanh nghiệp Việt Nam buộc doanh nghiệp Việt Nam phải trưởng thành qua cạnh tranh, ngoài ra không còn con đường nào khác. Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, để có hệ thống doanh nghiệp mạnh, Nhà nước Nhật Bản chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, và cũng chỉ hỗ trợ thông qua các giải pháp để có thị trường thuận lợi cho doanh nghiệp cạnh tranh, nhờ đó các doanh nghiệp Nhật Bản trưởng thành rất nhanh chóng.

 

Thứ ba, việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, về cơ bản phụ thuộc vào chiến lược của từng doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, trong tình trạng của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có một số điểm chung cần lưu ý như:

 

* Các doanh nghiệp chưa khai thác hết khả năng tạo uy tín và hiệu quả thông qua chính sách tài chính hỗ trợ tối đa cạnh tranh để có thể tiếp cận nguồn vốn không đến nỗi khan hiếm hiện nay. Các tổ chức tài chính của Việt Nam dù tiềm lực chưa lớn, nhưng nguồn vốn không phải là nhỏ và hiện khan hiếm các dự án hiệu quả để cho vay. Vấn đề là các doanh nghiệp phải năng động, phải đầu tư để có thông tin thị trường và thông tin về đối thủ để có quyết sách đầu tư đúng đắn, qua đó mới có sức mạnh về sản phẩm, về giá cả và quy mô để thắng thế trong cạnh tranh. Các chính sách này không những phải có tầm nhìn dài hạn mà còn phải đủ linh hoạt và năng lực thực hiện. Hơn nữa cần ý chí đi đến cùng chiến lược, bất kể áp lực và khó khăn như thế nào.

 

* Phải biết sử dụng đúng đắn tiềm năng con người và xã hội Việt Nam. Người Việt Nam được đánh giá là nhận thức nhanh, linh hoạt trong suy nghĩ và hành động nhưng kém khả năng nhẫn nại và quá coi trọng lợi ích ngắn hạn, không thích hợp tác liên doanh với nhau vì tính nghi kỵ… Những đặc tính đó phải được hóa giải có lợi cho công việc kinh doanh, nhất là trong tổ chức xã hội lao động. Lợi thế lao động này có thể khai thác trên phương diện phí đào tạo chuyên môn hóa hẹp và chuyển nghề thấp, độ khéo léo của công nhân nếu được sử dụng thích hợp có thể làm ra những sản phẩm có chất lượng cao. Lượng lao động xã hội khá lớn và độ tuổi trung bình trẻ là lợi thế giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới kỹ thuật mà không vấp phải lực cản lớn. Tuy nhiên, kỷ luật lao động cần phải được chú trọng nhằm giữ ổn định tổ chức sản xuất và kiểm soát chất lượng. Do tính tiểu nông còn nặng nề, nên lao động Việt Nam chưa thích dụng với kỷ luật lao động công nghiệp chặt chẽ, chưa ý thức được hành vi vô kỷ luật của mình gây tổn hại như thế nào, nên tính tự giác lao động chưa cao, sáng tạo chưa tốt, mức độ dịch chuyển công việc theo thu nhập còn cao, người lao động chưa trung thành với công ty. Do đó, không thể áp dụng nguyên xi các mô hình quản lý doanh nghiệp của phương Tây, nhưng cũng không nên thụ động chờ hoàn cảnh. Điều căn bản trong doanh nghiệp là ban quản lý phải gắn với lợi ích của công nhân, công khai các lo lắng cùng công nhân và tạo nên không khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau. Doanh nghiệp hiện nay cũng còn chi phí cho đào tạo lâu dài nguồn nhân lực quá ít nên chất lượng lao động chưa được tiêu chuẩn hóa, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động của doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng lực lao động, tăng thu nhập cho công nhân, đồng thời giảm chi phí lương trong sản phẩm. Đặc biệt, cần có chiến lược thu hút và sử dụng nhân tài làm việc trong công ty. Đội ngũ cán bộ quản lý đầy năng lực, tích cực, năng động và tận tụy là lợi thế so sánh lớn nhất của doanh nghiệp trong cạnh tranh.

 

* Doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực mở cửa liên doanh liên kết với doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới cho thấy, không có doanh nghiệp nào đủ sức bao trùm mọi thế mạnh của ngành. Đợi chờ sự tích tụ trong từng doanh nghiệp ngày nay là con đường vô vọng. Tăng quy mô sản xuất bằng vốn vay cũng chỉ tăng quy mô những lợi thế hạn hẹp của một doanh nghiệp, còn liên doanh, liên kết, thậm chí sát nhập để trở thành các tập đoàn kinh tế lớn sẽ ngay lập tức hội tụ được các lợi thế mà từng doanh nghiệp đã tích lũy được theo những con đường khác nhau. Để có thể liên doanh, liên kết thành công, phải biết hy sinh những lợi ích ngắn hạn, biết lựa chiều đối phương để kế hoạch có thể thông qua. Liên kết để cùng cạnh tranh có lẽ là mặt yếu kém lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các doanh nghiệp còn cần đến cả những liên kết xã hội mang tính ngành nghề nhằm hỗ trợ nhau về mặt tổ chức và pháp lý trong môi trường cạnh tranh quốc tế.

 

* Doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng đầu tư và khuyến khích mạnh mẽ mọi sáng kiến có thể. Đây cũng là điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Một mặt, đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam cho nghiên cứu và phát triển tương đối nhỏ do tiềm lực tài chính thấp kém. Nhưng căn bản hơn là, các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức được tầm quan trọng của sản phẩm mới, ý tưởng mới có giá trị vô cùng to lớn trong cạnh tranh. Những phát minh mới, thậm chí có thể chỉ là những cải tiến hợp lý sản phẩm, có thể làm cho doanh nghiệp này vượt qua doanh nghiệp khác và giữ vị trí số 1 trên thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam chưa có năng lực phát minh sáng chế dồi dào, nhưng kể cả đưa ra yêu cầu buộc người lao động phải cải tiến kỹ thuật, tìm cách phát huy sáng kiến của người lao động trong doanh nghiệp, đặt yêu cầu này như một mục tiêu trọng tâm trong chiến lược phát triển cũng chưa được chú ý đúng mức.

 

Xây dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hoạch định chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp hiệu quả là cả một lĩnh vực nghiên cứu sâu, rộng và phức tạp mà đã đến lúc khoa học kinh tế của Việt Nam nên chú trọng đúng mức. Một vài suy nghĩ ban đầu sơ khai chưa thể làm được gì nhiều. Hy vọng khi có dịp chúng tôi sẽ trở lại bàn luận vấn đề này sâu sắc hơn.

 

 

PGS.TS. VŨ VĂN PHÚC

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phú Yên

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek