Tờ Times of India vừa đăng bài viết đánh giá cao những tiến triển mạnh mẽ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Ấn Độ trong thời gian gần đây.
Trong bài viết “Quan hệ kinh tế Ấn Độ - Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ”, tác giả S D Pradhan nêu rõ năm 2022 là dấu mốc quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước Ấn Độ - Việt Nam.
Quan hệ ngoại giao chính thức Việt Nam - Ấn Độ được thiết lập từ năm 1992, nhưng trên thực tế quan hệ giữa hai nước đã có hơn 2.000 năm tuổi. Các nhà sử học chỉ ra rằng các liên kết kinh tế và văn hóa có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, với việc Phật giáo đến Việt Nam thông qua các phái đoàn Ấn Độ vào Thế kỷ thứ ba hoặc thứ hai trước Công nguyên.
Trong 50 năm qua, quan hệ song phương đã có sự phát triển đáng kể, đạt được tầm vóc mới với các lợi ích chung về chiến lược, ngoại giao, an ninh và kinh tế, đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ giao lưu nhân dân.
Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam là một trong những mối quan hệ song phương quan trọng nhất mà Ấn Độ có ở Đông Nam Á. Ấn Độ và Việt Nam đã nâng cấp quan hệ từ Đối tác chiến lược năm 2007 lên Đối tác chiến lược toàn diện năm 2016. Điều này thể hiện cam kết đầu tư nhiều hơn nữa của hai nước trong việc thúc đẩy quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực.
Năm 2022 chứng kiến các hoạt động ngoại giao cấp cao Việt Nam - Ấn Độ nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Cuối năm 2021, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm Ấn Độ theo lời mời của của Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ Om Birla và Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ Venkaiah Naidu. Đây là cuộc tiếp xúc cấp cao đầu tiên kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và xây dựng kế hoạch hành động cho sự hợp tác sâu rộng hơn nữa.
Tháng 4/2022, Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ Om Birla thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm, ông nhấn mạnh Ấn Độ và Việt Nam cần mở rộng hợp tác hơn nữa trong các lĩnh vực như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, chăm sóc sức khỏe và nền kinh tế kỹ thuật số.
Ngày 15/4/2022, Thủ tướng Ấn Độ Modi đã có cuộc điện đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trao đổi về các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đề ra, trong đó có việc Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm sản xuất quan trọng của các công ty toàn cầu và nâng cấp nền kinh tế từ một ngành công nghiệp lao động chi phí thấp tập trung vào sản xuất thành trung tâm công nghệ cao cho khoa học và công nghệ.
Tháng 6/2022, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh thăm Việt Nam. Chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện quốc phòng và kinh tế.
Cả hai nước đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc thúc đẩy thương mại, đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao phát triển kinh tế, đưa mối quan hệ kinh tế lên tầm cao mới vì lợi ích của cả hai bên. Để đạt được mục tiêu này, Bộ Công thương, Chính phủ Việt Nam đã cử đoàn doanh nghiệp, do Phó Tổng cục trưởng Đỗ Quốc Hùng dẫn đầu cùng sự tham gia của 20 doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực, sang Ấn Độ từ ngày 18-22/7/2022.
Trong cuộc họp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (IICCI), trưởng đoàn doanh nghiệp Việt Nam cho biết “thương mại song phương giữa hai nước đã ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể”, từ mức 200 triệu USD vào năm 2000 lên đến 13,2 tỉ USD trong năm 2021 và mức tang trưởng trong giai đoạn 2021-2022 lên tới 27%.
Ông Atul Kumar Saxena, Chủ tịch IICCI nêu bật những yếu tố khiến Việt Nam trở thành một địa điểm hấp dẫn để kinh doanh, chỉ ra rằng "Việt Nam đang cung cấp những hỗ trợ cần thiết cho các doanh nhân và có mức tăng trưởng kinh tế ổn định, kể cả trong thời kỳ đại dịch".
Cuối cùng, Việt Nam đã thực hiện một số bước để đẩy nhanh hội nhập vào thị trường toàn cầu như ký kết Hiệp định Thương mại Tự do với Châu Âu vào năm 2019. Việt Nam cũng là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), RCEP và Hiệp định Thương mại Tự do Ấn Độ - ASEAN. Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến ưa thích của các công ty sản xuất Nhật Bản.
Những cải cách nội bộ bắt đầu với sự ra đời của Đổi mới vào năm 1986 nhằm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, đang được tiếp tục. Việt Nam không chỉ đảm bảo tiếp tục cung cấp điện cho các nhà công nghiệp mà còn số hóa quy trình đăng ký doanh nghiệp, minh bạch hóa và tự do cho các doanh nghiệp nước ngoài sở hữu 100% vốn.
Chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam đã đảm bảo loại bỏ những khâu, những đối tượng trung gian. Bên cạnh đó là tập trung vào phát triển lao động có kỹ năng cần thiết cho tăng trưởng công nghiệp.
Hiện nay, Ấn Độ là đối tác thương mại lớn thứ tám của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 15 của Ấn Độ và thứ tư ở Đông Nam Á. Việt Nam đang cố gắng đa dạng hóa thương mại và có ý định tận dụng thị trường đang phát triển của Ấn Độ.
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ lực sang Ấn Độ là điện thoại di động và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, hóa chất, nhựa, cao su, càphê, hạt tiêu và hạt điều. Các mặt hàng Ấn Độ xuất khẩu chính sang Việt Nam là các sản phẩm sắt, thép, nguyên phụ liệu dệt may, thủy sản, ngô, dược phẩm và nguyên phụ liệu, phụ tùng ôtô.
Việt Nam chiếm vị trí trung tâm trong Chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ cũng như trong chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ấn Độ đã có những đóng góp tích cực trong việc nâng cao năng lực và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Ấn Độ cũng đã và đang cung cấp hỗ trợ cho Việt Nam trong khuôn khổ ASEAN.
Trong khuôn khổ Hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC), Ấn Độ đã và đang thực hiện các Dự án hành động nhanh (QIP), mỗi dự án trị giá 50.000 USD, tại các tỉnh của Việt Nam để phát triển cơ sở hạ tầng cộng đồng. Ấn Độ có 317 dự án còn hiệu lực trị giá trên 1 tỉ USD tại Việt Nam, đứng thứ 23 trong số 129 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Ấn Độ nhận thấy Việt Nam là một cường quốc tiềm năng ở Đông Nam Á, với sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế đáng kể. Mức tăng trưởng kinh tế trung bình 7% hàng năm là rất hấp dẫn.
Ngay cả trong thời kỳ tồi tệ nhất của đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đáng khen ngợi, ở mức 3%, trong khi một số quốc gia khác ghi nhận mức tăng trưởng âm. Ấn tượng hơn nữa là sự tăng trưởng được thúc đẩy bởi thặng dư thương mại kỷ lục, bất chấp sự sụp đổ trong thương mại toàn cầu.
Các động lực thúc đẩy tăng trưởng thương mại đều mang tính chiến lược và kinh tế. Cả hai nước đều mong muốn thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Vấn đề liên quan đến chuỗi cung ứng nổi lên trong những năm gần đây cũng thúc đẩy xem xét một dây chuyền cung ứng thay thế.
Hơn nữa, cả hai quốc gia đều mong muốn khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ổn định, rộng mở, tự do và bao trùm. Vì vậy, cả hai nước đều có mục tiêu chung.
Về triển vọng tương lai cho quan hệ kinh tế giữa Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu khó lường hiện nay, Ấn Độ đang theo đuổi chính sách “Hành động hướng Đông” và đang nỗ lực làm cho Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, điều này sẽ thúc đẩy an ninh và tăng trưởng cho mọi người trong khu vực.
Việt Nam đã đặt ra các ưu tiên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, bao gồm chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế dựa trên kỹ thuật số, phát triển khoa học và công nghệ và tạo môi trường thuận lợi hơn cho phát triển doanh nghiệp cũng như các mối quan tâm về sản xuất. Những điều đó sẽ góp phần làm cho triển vọng tăng trưởng thương mại giữa Ấn Độ và Việt Nam rất sáng sủa trong giai đoạn tới.
Theo TTXVN/Vietnam+