Thứ Năm, 10/10/2024 13:21 CH
Toàn văn báo cáo giải trình và trả lời chất vấn trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
Thứ Ba, 06/12/2011 14:25 CH

Tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII ngày 25/11/2011, sau khi đọc Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn, Thủ tướng Chính phủ đã tiếp tục trả lời các câu hỏi chất vấn của đại biểu Quốc hội. PYO xin trân trọng giới thiệu toàn văn trả lời trực tiếp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

 

TT-111206.jpg

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội - Ảnh: Chinhphu.vn

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

 

Tôi rất chú ý lắng nghe. Những vấn đề mà các vị đại biểu Quốc hội chất vấn đều quan trọng và có phạm vi khá rộng. Tôi xin cố gắng trình bày khái quát từng vấn đề.

 

I. Trước hết, ý kiến chất vấn của đại biểu về chủ trương của Chính phủ để bảo đảm chủ quyền của ta ở biển Đông và đảm bảo an toàn cho các ngư dân của ta đánh bắt hải sản. Tôi xin trình bày mấy vấn đề sau:

 

Quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông (gọi tắt là DOC) đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc, và Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển mà Việt Nam và Trung Quốc mới ký trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

 

Căn cứ đường lối và những nguyên tắc nêu trên, Việt Nam chúng ta chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông như sau:

 

- Vấn đề thứ nhất. Về đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.

 

Trong Vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới năm 2000. Còn vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 thì thềm lục địa của nước ta có chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ năm 2006 hai bên đã tiến hành đàm phán, sau nhiều vòng đàm phán, đến năm 2009 hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường còn rất khác xa nhau. Đầu năm 2010 hai bên thỏa thuận tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, sau nhiều vòng đàm phán như tôi vừa trình bày ở trên, Việt Nam và Trung Quốc đã ký được thỏa thuận về những nguyên tắc này. Theo nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, thì vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ chỉ liên quan giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì vậy giữa 2 nước Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố DOC và trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc.

 

Để có một giải pháp hợp lý mà hai bên đều có thể chấp nhận được, chúng ta đang thúc đẩy cùng với Trung Quốc xúc tiến đàm phán để giải quyết việc phân định này. Cũng xin nói thêm, trong khi chưa phân định ranh giới, trên thực tế với chừng mực nào đó, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Từ thực tế này, chúng ta giao thiệp, đối thoại, trên tinh thần láng giềng hữu nghị với Trung Quốc để bảo đảm an ninh, an toàn cho việc khai thác nghề cá của đồng bào ngư dân chúng ta.

 

- Vấn đề thứ hai, chúng ta chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền đó là quần đảo Hoàng Sa.

 

Thưa các vị đại biểu Quốc hội, Việt Nam chúng ta khẳng định có đầy đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử để khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam đã làm chủ thực sự ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việt Nam thực sự làm chủ khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam chúng ta đã làm chủ trên thực tế, liên tục và hòa bình.

 

Nhưng đối với quần đảo Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 Trung Quốc tiếp tục dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự đang quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn - chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn - chính quyền Việt Nam cộng hòa lúc đó đã lên án hành động xâm chiếm này và đã đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp. Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra Tuyên bố phản đối hành vi dùng vũ lực chiếm đóng này.

 

Lập trường nhất quán của Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đầy đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng Việt Nam chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của Việt Nam là phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, phù hợp với Tuyên bố DOC.

 

- Vấn đề thứ ba, chúng ta chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền đó là quần đảo Trường Sa.

 

Năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, Hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta đã tiếp quản 5 đảo nổi tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Nam Yết và Sơn Ca. Năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn - chính quyền Việt Nam cộng hòa đang quản lý. Chúng ta tiếp quản.

 

Tiếp sau đó, với chủ quyền của Việt Nam, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo (có 9 đảo nổi và 12 đảo chìm), với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta đã xây dựng 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của Việt Nam chúng ta ở vùng biển này - vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trong khi đó ở quần đảo Trường Sa này, Trung Quốc cũng đã dùng vũ lực chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Phi-líp-pin chiếm 9 đảo, Ma-lai-xia chiếm 5 đảo, còn Bru-nây có đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển này nhưng không có chiếm giữ đảo nào.

 

Như vậy trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam chúng ta đã làm chủ trên thực tế, liên tục và hòa bình. Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam chúng ta cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà chúng ta đang đóng giữ với 21 hộ, 80 khẩu, trong đó có 6 khẩu đã sinh ra, lớn lên ở các đảo này và đang có 12 cán bộ quản lý hành chính.

 

Chủ trương của chúng ta ở quần đảo Trường Sa và trên biển Đông là:

 

+ Thứ nhất phải nghiêm túc thực hiện Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, nghiêm túc thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mà Việt Nam và Trung Quốc vừa ký kết. Cụ thể là, chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không có những hành động làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định. Các tranh chấp phải giải quyết bằng đàm phán hoà bình, không dùng vũ lực và phải cùng đàm phán với tất cả các bên liên quan.

 

+ Thứ hai là chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật ở những nơi chúng ta đang đóng giữ bao gồm cả đường sá, bến cảng, sân bay, điện, nước, trạm xá, trường học, nhà ở, viễn thông, truyền hình, phát thanh... để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân ta trên các đảo ở quần đảo Trường Sa.

 

+ Thứ ba là Chính phủ đã có ban hành các cơ chế chính sách, các biện pháp để hỗ trợ và bảo vệ cho đồng bào ngư dân ta làm ăn sinh sống trên vùng biển đảo của chúng ta. Chính phủ đang chỉ đạo sơ kết đánh giá lại để có bổ sung những hỗ trợ và giải pháp cần thiết cho đồng bào ngư dân ta khai thác hải sản, vận tải biển, làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền của mình trên vùng biển đảo của chúng ta nói chung và trên quần đảo Trường Sa nói riêng.

 

+ Thứ tư là chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố DOC là phải bảo đảm tự do hàng hải ở biển Đông, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh ở biển Đông. Đây là mong muốn và là lợi ích của tất cả các nước, các bên liên quan, không chỉ của Việt Nam. Vì biển Đông là tuyến đường hàng hải quốc tế, tuyến đường này vận tải 50 - 60% tổng lượng hàng hóa từ Đông sang Tây.

 

- Vấn đề thứ tư, chúng ta chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên biển Đông theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

 

Việt Nam chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục quản lý và thực hiện chủ quyền của mình ngày càng đầy đủ hơn, hiệu quả hơn đối với vùng biển 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Chúng ta kiên định thực hiện lập trường chính nghĩa này.

 

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Lập trường về chủ quyền và giải quyết tranh chấp của Việt Nam chúng ta nêu trên được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ mà gần đây nhất là tại Hội nghị Cấp cao ASEAN và Cấp cao ASEAN với các đối tác.

 

II. Câu hỏi chất vấn thứ hai là chủ trương chính thức của Chính phủ về quản lý kinh doanh vàng.

Vấn đề này, trong báo cáo giải trình của tôi đã nói khá rõ. Để tiết kiệm thời gian của Quốc hội, tôi xin không trình bày lại. Chính phủ đang quản lý điều hành việc kinh doanh vàng theo các yêu cầu, định hướng đã nêu trong Báo cáo mà tôi đã vừa trình bày.

 

III. Ý kiến chất vấn của đại biểu, về căn cứ mà Chính phủ đề nghị Quốc hội xây dựng Luật Biểu tình. Tôi xin trình bày mấy ý kiến như sau:

 

Thứ nhất là để thực hiện Hiến pháp. Điều 69 Hiến pháp khẳng định công dân được quyền biểu tình theo quy định pháp luật. Nhưng đến nay chưa có Luật Biểu tình. Vì vậy chúng ta nên bắt tay nghiên cứu xây dựng Luật Biểu tình. Nói tóm lại là phải thực hiện Hiến pháp.

 

Thứ hai là chắc tất cả các vị đại biểu Quốc hội đều biết rất rõ trong thực tế cuộc sống hiện nay của xã hội chúng ta là đã có nhiều cuộc đồng bào ta tụ tập đông người, biểu tình để bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị với chính quyền, nhưng chúng ta chưa có luật để điều chỉnh những biểu hiện này. Do đó cũng làm khó khăn cho người dân khi thực hiện quyền được Hiến pháp quy định và cũng rất khó khăn cho việc quản lý của chính quyền. Như vậy đã nảy sinh lúng túng. Và từ đó đã có những biểu hiện mất an ninh trật tự và cũng đã xuất hiện những hành vi lợi dụng để xuyên tạc, kích động gây phương hại cho xã hội.

 

Thứ ba là trước thực trạng tình hình như vậy, Chính phủ đã có báo cáo kiến nghị với Thường vụ Quốc hội khóa trước, Thường vụ Quốc hội đã có công văn yêu cầu Chính phủ ban hành Nghị định để quản lý. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38 để quản lý điều chỉnh biểu hiện này, nhưng Nghị định của Chính phủ hiệu lực pháp luật thấp, chưa tương xứng với tầm mức của Hiến pháp quy định và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống đang đặt ra.

 

Vì vậy, Chính phủ kiến nghị với Quốc hội xem xét đưa vào chương trình xây dựng Luật. Để chúng ta có Luật Biểu tình. Luật Biểu tình đó phải phù hợp với Hiến pháp, phù hợp với đặc điểm lịch sử văn hóa và điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời Luật Biểu tình mà chúng ta xây dựng cũng có yêu cầu là ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây phương hại đến an ninh trật tự, đến lợi ích của xã hội và nhân dân.

 

Với những căn cứ nêu trên chúng tôi đề nghị Quốc hội xem xét đề nghị của Chính phủ.

 

IV. Về câu hỏi chất vấn của đại biểu là chủ trương của Chính phủ đối với những công dân biểu tình để biểu thị lòng yêu nước và bảo vệ chủ quyền. Tôi xin trình bày như sau.

 

Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và của Chính phủ là luôn trân trọng, biểu dương, khen thưởng xứng đáng đối với tất cả các hoạt động, các việc làm của mọi người Việt Nam chúng ta thật sự vì mục đích yêu nước, thật sự vì mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tất cả những hoạt động vì mục tiêu nói trên đều được trân trọng, đều được hoan nghênh, đều được khuyến khích, đều được biểu dương, khen thưởng thích đáng. Nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và buộc phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những hoạt động, những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia để qua đó mà thực hiện mục đích gây phương hại cho xã hội, cho đất nước. Tôi nghĩ với chủ trương nhất quán như vậy, chắc là đồng bào, đồng chí chúng ta sẽ đồng tình ủng hộ.

 

V. Về ý kiến chất vấn Chính phủ là có những giải pháp gì đề ngăn chặn khai thác khoáng sản trái phép và để quản lý tốt hơn việc khai thác khoáng sản, không gây ô nhiễm môi trường, gây mất trật tự an toàn xã hội và xuất khẩu khoáng sản thô. Tôi xin trình bày ý kiến như sau.

 

Chúng ta ở đây ai cũng biết là khoáng sản có giá trị quý hiếm, là tài nguyên không tái tạo. Tất cả mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ giữ gìn, khai thác và sử dụng với hiệu quả cao nhất. Thời gian qua, chúng ta đã tiến hành điều tra thăm dò khoáng sản của đất nước và đã xây dựng nhiều quy hoạch để khai thác, sử dụng khoáng sản cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc khai thác khoáng sản cũng đã có những kết quả. Nhưng Chính phủ nghiêm túc nhìn nhận từ việc quy hoạch, khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản còn nhiều bất cập, yếu kém như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu. Vừa qua Chính phủ đã có cuộc họp thảo luận chuyên đề về vấn đề này. Thủ tướng Chính phủ đã kết luận chỉ đạo mấy giải pháp chủ yếu như sau:

 

Thứ nhất, yêu cầu chính quyền các địa phương, các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo ngăn chặn bằng được việc khai thác khoáng sản không phép và trái phép gây bức xúc hiện nay. Không thể nói rằng việc khai thác khoáng sản không phép và trái phép trên địa bàn mà chính quyền không biết. Trước tiên là phải làm cho được điều này. Phải ngăn chặn cho được khai khai thác không phép và khai thác trái phép gây ô nhiễm môi trường, gây mất an ninh trật tự, gây bức xúc trong nhân dân.

 

Thứ hai, Chính phủ chủ trương tạm dừng cấp phép mới khai thác khoáng sản. Đồng thời tiến hành rà soát ngay 2 việc: Một là rà soát lại các dự án đang khai thác, dự án nào đang khai thác mà gây ô nhiễm môi trường, gây hư hỏng đường sá, gây mất an ninh trật tự thì phải dừng ngay việc khai thác. Thứ hai là việc rà soát này phải đi liền với việc rà soát để bổ sung phê duyệt lại quy hoạch theo hướng chế biến sâu và có hiệu quả cao nhất.

 

Thứ ba, Chính phủ chủ trương kiểm soát xuất khẩu khoáng sản, xuất khẩu quặng ngay tại các dự án chứ không chỉ kiểm soát ở cửa khẩu. Những dự án nào đang xuất khẩu không đúng với giấy phép và trái với quy định của pháp luật phải dừng lại ngay. Mặt khác, tuy làm đúng giấy phép nhưng thấy xuất khẩu là không có lợi, để dành chế biến sâu và có hiệu quả hơn thì cũng có giải pháp thích hợp để dừng lại, không tiếp tục khai thác xuất khẩu. Tôi rất hoan nghênh, với tinh thần chỉ đạo này, đồng chí Bộ trưởng Bộ Công Thương đã cho dừng xuất khẩu quặng sắt ở mỏ Quý Sa - Lào Cai. Dừng không xuất khẩu quặng để chúng ta chế biến sâu hơn, hiệu quả hơn.

 

Thứ tư, trên cơ sở rà soát bổ sung phê duyệt lại quy hoạch như đã nêu trên, việc cấp phép mới khai thác khoáng sản phải thật chặt chẽ. Trước khi cấp phép phải thẩm định dự án khả thi, cả về hiệu quả kinh tế theo hướng chế biến sâu, bảo đảm môi trường, về công nghệ, về hiệu quả xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, quốc phòng... khi đảm bảo các yêu cầu này mới cấp giấy phép khai thác khoáng sản.

 

Ngoài ra Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính tăng thêm ngân sách để tiếp tục thăm dò điều tra về khoáng sản của nước ta. Theo đồng chí Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải báo cáo với tôi, chúng ta mới thăm dò khoáng sản hơn 50% diện tích trên đất liền và mới hơn 1% diện tích trên biển của nước ta. Phải có thêm kinh phí khảo sát để biết chúng ta có cái gì, bao nhiêu, trữ lượng, chất lượng thế nào mà hoạch định chiến lược phát triển cho phù hợp.

 

Mặt khác Chính phủ cũng đang tập trung xây dựng chiến lược khoáng sản theo kết luận của Bộ Chính trị và sẽ sớm ban hành các Nghị định để thực hiện Luật Khoáng sản mà Quốc hội đã ban hành.

 

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Tôi rất muốn và sẵn sàng trình bày tiếp những chất vấn còn lại. Nhưng đồng chí Chủ tịch Quốc hội có nói với tôi là chỉ đến 11 giờ 20 phút. Xin Quốc hội cho tôi dừng ở đây. Các chất vấn còn lại tôi sẽ trả lời bằng văn bản trực tiếp đến các vị đại biểu Quốc hội và sẽ thông báo công khai trên Cổng Thông tin Điện tử của Chính phủ.

 

Xin cảm ơn và xin chúc sức khỏe các vị đại biểu Quốc hội. Chúc kỳ họp của Quốc hội chúng ta thành công tốt đẹp. Xin cảm ơn đồng chí, đồng bào.

 

Theo chinhphu.vn

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek