Thứ Sáu, 04/10/2024 00:28 SA
Báo cáo tóm tắt Tổng kết hoạt động UBND tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2004-2011
Thứ Bảy, 23/04/2011 08:00 SA

I.ÐẶC ÐIỂM TÌNH HÌNH

 

UBND tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2004-2011 là một nhiệm kỳ đặc biệt kéo dài 7 năm, nhân sự Chủ tịch, một số Phó Chủ tịch và thành viên UBND tỉnh có sự thay đổi. Công tác chỉ đạo điều hành nhiệm kỳ qua có những thuận lợi cơ bản, bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách như: Tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến phức tạp khó lường; biến động của giá cả thị trường; ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới đã tác động lớn đến tình hình kinh tế - xã hội trong nước, trong tỉnh. Trong khi đó, điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh thấp, cơ sở hạ tầng tuy được tập trung đầu tư, nhưng nhìn chung còn thiếu đồng bộ; dịch bệnh diễn biến phức tạp; thiên tai hàng năm gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất và đời sống nhân dân.

 

le_van_truc110423.jpg

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lê Văn Trúc thay mặt UBND tỉnh trình bày báo cáo đánh giá hoạt động của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011 tại kỳ họp thứ 20 HĐND tỉnh khóa V. - Ảnh: T.QUỚI

 

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, Tỉnh ủy, giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, HĐND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận và các đoàn thể; UBND tỉnh đã đoàn kết nhất trí, tập trung chỉ đạo, điều hành khắc phục khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiềm năng và nguồn lực hiện có, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, vừa khắc phục nhanh hậu quả thiên tai và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội. Qua nhiệm kỳ hoạt động, UBND tỉnh đánh giá những ưu, khuyết điểm trong công tác chỉ đạo, điều hành phát triển KT-XH-ANQP trên địa bàn tỉnh như sau:

 

II. NHỮNG KẾT QUẢ ÐẠT ÐƯỢC

 

1. Đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành theo Hiến pháp, pháp luật và Quy chế làm việc của UBND tỉnh.

 

- Trong nhiệm kỳ qua, UBND tỉnh đã không ngừng được củng cố kiện toàn về số lượng và chất lượng, ngày càng phát huy được hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Việc chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh đảm bảo tuân thủ theo Hiến pháp, pháp luật và Quy chế làm việc của UBND tỉnh. Hàng năm đều chủ động xây dựng chương trình công tác của UBND tỉnh từ đầu năm, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện. Tiếp tục cải tiến nội dung các cuộc họp và dành nhiều thời gian xuống cơ sở, trực tiếp kiểm tra nắm tình hình và chỉ đạo xử lý kịp thời một số vướng mắc.

 

- Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh có nhiều đổi mới. Trong phân công công việc theo hướng mỗi việc chỉ được giao cho một đơn vị, một người phụ trách và chịu trách nhiệm chính, đồng thời đề cao sự phối hợp công tác, trao đổi thông tin; bảo đảm dân chủ, rõ ràng, minh bạch, hiệu quả. Đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; kết hợp vai trò tập thể qua thảo luận quyết định các vấn đề quan trọng, với đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch, các Phó Chủ tịch trong điều hành lĩnh vực được phân công. Đối với các chương trình, dự án lớn đều phân công cụ thể Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, thành viên UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo và đôn đốc. Chú trọng chỉ đạo điều hành theo chương trình, kế hoạch, đồng thời có sự linh động trong điều hành, tập trung ưu tiên trong giải quyết những vấn đề trọng tâm, trọng điểm và bức xúc mới phát sinh.

 

2. Chú trọng công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao chất lượng xây dựng ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành.

 

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được UBND tỉnh chú trọng và chỉ đạo thực hiện với nhiều hình thức phong phú như: qua các phương tiện thông tin đại chúng, trợ giúp pháp lý, giải đáp pháp luật trực tiếp tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa… góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân trong tỉnh.

 

- Đã kịp thời xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện văn bản chỉ đạo của Chính phủ; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, Chương trình hành động của Tỉnh ủy và Nghị quyết HĐND tỉnh. Đồng thời đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Chú trọng đổi mới quy trình xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho công tác chỉ đạo điều hành đi vào nề nếp. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã ban hành 45.523 văn bản các loại, trong đó 367 văn bản quy phạm pháp luật.

 

Đáng chú ý, ban hành nhiều quyết định có tác động tích cực đến kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân, như: Quy định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư áp dụng tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; Quy định quản lý đầu tư và xây dựng đối với các dự án do tỉnh quản lý; Quy định về ký quỹ đầu tư, Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất; cơ chế, giải pháp điều hành và kế hoạch triển khai đối với các dự án cấp bách, quan trọng; Đề án đào tạo bác sĩ đa khoa, dược sĩ đại học hệ chính quy theo địa chỉ đến năm 2020; Chính sách thu hút trí thức trẻ về công tác cấp xã, chính sách giải quyết nghỉ chờ nghỉ hưu, nghỉ hưởng chế độ một lần đối với cán bộ công chức xã lớn tuổi, không đạt chuẩn; các quy định về phân cấp, ủy quyền; quy định về trình tự, thủ tục hành chính…

 

3. Tập trung chỉ đạo, điều hành ổn định và phát triển kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và theo hướng bền vững.

 

- Hoạt động quản lý điều hành kinh tế - xã hội của UBND tỉnh được thực hiện trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật và khá toàn diện. Đã tập trung sức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp kiềm chế lạm phát, khắc phục khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế để duy trì ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế tỉnh giữ được mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2005-2010 đạt 12,1%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 là 15,8 triệu đồng, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Giá trị công nghiệp – xây dựng năm 2005 chỉ chiếm tỉ trọng 29,3% trong cơ cấu GDP đến năm 2010 đã tăng lên 34,4%, dịch vụ từ 34,1% tăng lên 36,4%, nông nghiệp – lâm – thủy sản từ 36,6% giảm xuống còn 29,2%.

 

- Tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao hơn. Giá trị gia tăng trong ngành nông – lâm – thủy sản bình quân 2005-2010 đạt 4,2%. Ổn định diện tích lúa 2 vụ, tăng năng suất, đảm bảo sản lượng lương thực bình quân hàng năm trên 32 vạn tấn, giữ vững an ninh lương thực. Chất lượng chăn nuôi được nâng lên và bước đầu đã xuất hiện một số mô hình chăn nuôi tập trung theo hình thức trang trại, công nghiệp. Tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy diễn biến phức tạp, nhưng cơ bản được khống chế kịp thời. Đã hoàn thành rà soát quy hoạch 3 loại rừng. Thu hút được các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng sản xuất, góp phần nâng tỉ lệ độ che phủ rừng lên 35,4%. Thủy sản phát triển cả lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng, với quy mô tàu thuyền và năng lực khai thác thủy sản tăng khá. Nuôi trồng thủy sản có sự đa dạng về đối tượng nuôi, mở rộng một số đối tượng nuôi mới có hiệu quả.

 

- Quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng ở nhiều vùng nông thôn, nhất là hạ tầng về giao thông, điện, nước, làng nghề…, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo. Đến năm 2010, 100% xã được đầu tư từ chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, nâng tỉ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt 70%. Đã ban hành kế hoạch và tập trung triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

 

- Đặc biệt chú trọng các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai. Kịp thời củng cố, kiện toàn Ban chỉ huy phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn tỉnh. Hàng năm đều chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch phòng chống lụt bão, cứu hộ, cứu nạn. Tổ chức thực hiện khá tốt công tác di dời dân vùng bão lũ, triều cường, hạn chế thấp nhất thiệt hại về người. Ưu tiên vốn đầu tư các công trình phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai. Xây dựng quy hoạch các khu dân cư nông thôn; các dự án tái định cư vùng bị thiên tai. Tăng cường công tác phối hợp, quy trình vận hành các hồ thủy điện. Đồng thời nỗ lực hết sức trong chỉ đạo, điều hành các ngành, các cấp khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là cơn bão số 11 năm 2009 và lũ lụt cuối năm 2010. Tổ chức thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho nhân dân bị thiệt hại do bão lũ, đảm bảo an sinh xã hội.

 

- Chỉ đạo, điều hành sản xuất công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng lạm phát, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng nhìn chung sản xuất công nghiệp vẫn duy trì mức tăng khá. UBND tỉnh tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đề ra nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Giá trị gia tăng công nghiệp – xây dựng bình quân giai đoạn 2005-2010 là 16,9%. Cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp Hòa Hiệp, An Phú, Đông Bắc Sông Cầu và các cụm công nghiệp tiếp tục được tập trung đầu tư. Đặc biệt, Khu kinh tế Phú Yên đã được Thủ tướng Chính phủ thành lập, là khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa chức năng đã được quy hoạch chung về xây dựng.

 

- Trong lĩnh vực dịch vụ, chỉ đạo, điều hành đạt kết quả nổi bật cả về quy mô và chất lượng. Dịch vụ tăng trưởng khá cao và ổn định, đạt bình quân 13,5%/năm. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng. Hoạt động thương mại tiếp tục phát triển, đã hình thành hệ thống chợ rộng khắp trong tỉnh từ thành thị, nông thôn đến miền núi và với sự tham gia của 16.981 cơ sở kinh doanh bán lẻ hàng hóa (tăng 4.712 cơ sở so với năm 2005), ngoài ra hình thành một số siêu thị: Co.opMark, Thuận Thanh bán hàng theo hình thức văn minh, hiện đại.

 

Dịch vụ vận tải phát triển khá. Đường hàng không đã kết nối với Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Lượng hàng hóa thông qua cảng Vũng Rô tăng mạnh, đến năm 2010 đạt gấp 2 lần năng lực thiết kế (giai đoạn 1 là 250.000 tấn/năm). Khai thác tốt các tuyến xe khách chất lượng cao gắn với hình thành một số thương hiệu vận tải mạnh. Hệ thống vận tải công cộng bằng xe buýt phát triển nhanh, cơ bản đã nối đến các thị trấn và các điểm dân cư tập trung. Hoạt động du lịch có chuyển biến tích cực, một số dự án quy mô lớn đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả, trong đó có 1 khách sạn 5 sao, 2 khách sạn 4 sao và nhiều khu resort, khách sạn cao cấp. Đặc biệt, đã phối hợp với Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch tổ chức thành công lễ khai mạc và một số hoạt động Năm Du lịch quốc gia Duyên hải Nam Trung Bộ - Phú Yên 2011. Dịch vụ viễn thông phát triển mạnh, đến năm 2010 đạt 80 máy điện thoại/100 dân, tỉ lệ người dân sử dụng Internet đạt xấp xỉ 30 người/100 dân. Doanh thu bưu chính – viễn thông tăng nhanh, bình quân khoảng 37,6%/năm. Dịch vụ ngân hàng tiếp tục phát triển. Thu hút được một số ngân hàng thương mại cổ phần đặt chi nhánh, phòng giao dịch tại tỉnh.

 

- Quan tâm chỉ đạo công tác thu ngân sách. Kết quả thu ngân sách hàng năm đều tăng; năm 2010 đạt trên 1.200 tỉ đồng, tăng gấp 2,2 lần so năm 2005. Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng ngân sách tỉnh vẫn đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên, ưu tiên chi đầu tư phát triển, đồng thời thực hành tiết kiệm chi theo chủ trương của Chính phủ. Các thành phần kinh tế trong tỉnh tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Tập trung sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, toàn tỉnh chỉ còn 5 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước do địa phương quản lý. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã tiếp tục được củng cố, đổi mới, phát triển. Một số chính sách về cho thuê đất, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác được triển khai đạt kết quả bước đầu. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh kinh tế tư nhân. Đến năm 2010, toàn tỉnh có trên 1.060 doanh nghiệp đang hoạt động.

 

- Chú trọng công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch, kế hoạch. Tập trung hoàn thành nhiều quy hoạch quan trọng như: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH một số huyện, thành phố; Quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 định hướng đến 2020; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Phú Yên đến năm 2025… Đồng thời liên tục cập nhật, chỉnh sửa bổ sung quy hoạch các ngành, các địa phương cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

- Đặc biệt trong nhiệm kỳ này, UBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác đầu tư phát triển có bước tiến đáng kể. Kết quả đạt được là môi trường đầu tư của tỉnh ngày càng cải thiện tốt hơn, tạo tiền đề quan trọng huy động nhiều nguồn vốn đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2005-2010 là 29.125 tỉ đồng, bình quân tăng trên 21,3%/năm. Lãnh đạo UBND tỉnh thường xuyên kiểm tra thực tế tại một số công trình quan trọng và làm việc trực tiếp với các chủ đầu tư, UBND các huyện, thành phố, giải quyết được một số vấn đề tồn tại, vướng mắc có liên quan đến sử dụng đất lúa, khai thác vật liệu xây dựng thông thường, đền bù, giải phóng mặt bằng… đẩy nhanh tiến độ các công trình.

 

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư, trong đó nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng vào dịp kỷ niệm 400 năm Phú Yên. Cơ bản hoàn thành việc đầu tư hạ tầng huyện Phú Hòa, tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng huyện Đông Hòa và huyện Tây Hòa. Hệ thống giao thông tiếp tục được đầu tư mới, nâng cấp, đảm bảo thông suốt từ tỉnh đến thôn, buôn. Các tuyến đường huyện, đường nội thị thị trấn được nhựa hóa và bê tông hóa, cơ bản các xã đã có đường ô tô đến trung tâm. Đã đầu tư xây dựng trên 185km đường bê tông xi măng; kiên cố hóa giao thông nông thôn bình quân hàng năm đạt 0,85km/xã. Một số công trình lớn đã hoàn thành, đưa vào sử dụng như: cầu Hùng Vương, cầu Đà Nông, cầu Sông Ba, cầu La Hai, đường Phước Tân – Bãi Ngà, đường cơ động ven biển An Phú – An Hải, một số cầu trên trục giao thông miền Tây…

 

Đã đầu tư mới, sửa chữa, nâng cấp một số hồ chứa, trạm bơm điện, đập dâng, hệ thống kênh mương; khởi công xây dựng một số hồ chứa nước từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, đồng thời tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương, góp phần tăng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi. Đến nay, điện lưới quốc gia được đưa về tất cả các thôn buôn, với 100% hộ dân được sử dụng điện. Một số dự án điện như: Thủy điện Sông Ba Hạ 220MW, thủy điện Krông HNăng 64 MW, dự án RE2, dự án đầu tư cải tạo lưới điện TP Tuy Hòa đã hoàn thành đưa vào sử dụng; đang tiếp tục triển khai một số dự án thủy điện nhỏ. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học, y tế được tăng cường. Nhiều trường học được xây dựng khang trang, kiên cố, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Ở 3 huyện miền núi, mỗi huyện đều có trường phổ thông trung học, trường dân tộc nội trú được xây dựng khang trang. Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh, Bệnh viện Mắt được đưa vào sử dụng, đang tiếp tục nâng cấp, đầu tư mới các bệnh viện tuyến huyện và một số bệnh viện chuyên khoa của tỉnh. Ngoài ra, còn tích cực phối hợp triển khai các dự án của trung ương như: Hầm đường bộ Đèo Cả, nâng cấp Quốc lộ 25… và tạo điều kiện cho nhà đầu tư triển khai các dự án lớn trên địa bàn tỉnh.

 

4. Đặc biệt coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện và ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

 

- Đi đôi với tập trung chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế, UBND tỉnh luôn quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Các mặt văn hóa – xã hội có nhiều khởi sắc, an sinh xã hội bảo đảm. Mạng lưới trường lớp phát triển, toàn tỉnh có 300 trường phổ thông các cấp và 131 trường mầm non, mẫu giáo; trong đó có 80 trường đạt chuẩn quốc gia. Đã chuyển đổi loại hình trường bán công sang công lập đối với ngành học mầm non và THPT theo Nghị quyết của HĐND tỉnh. Đến cuối năm 2008, tỉnh Phú Yên được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS. Tỉ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp các cấp và thi đỗ cao đẳng, đại học đạt khá. Đã thành lập Trường Đại học Phú Yên, Trường Cao đẳng Nghề… cùng với các cơ sở đào tạo của Trung ương trên địa bàn đã tạo điều kiện học tập thuận lợi hơn cho nhân dân. Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ được quan tâm hơn. Đã triển khai một số đề tài nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và khoa học tự nhiên, ứng dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả bước đầu. Triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO vào hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước tại 19 đơn vị.

 

- Tập trung triển khai khá đồng bộ các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố và phát triển, có 55 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân tham gia chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tăng cường hỗ trợ chuyên môn cho tuyến dưới và ứng dụng một số công nghệ cao trong khám, điều trị bệnh. Đến nay đạt tỉ lệ 5,4 bác sĩ/1 vạn dân, 19 giường bệnh/1 vạn dân (kể cả giường y tế xã). Coi trọng công tác y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; quan tâm công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, kế hoạch hóa gia đình.

 

- Xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được UBND tỉnh tập trung chỉ đạo và đạt được kết quả nổi bật. Giai đoạn 2005-2010 đã giải quyết việc làm mới cho trên 150.000 lao động, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 25.200 người. Triển khai kịp thời, đầy đủ các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân. Đặc biệt quan tâm chăm lo cho các đối tượng chính sách. Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 19,3% năm 2005 xuống còn 9% năm 2010. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

 

- Quan tâm chỉ đạo phát triển văn hóa, thông tin, thể dục thể thao. Làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các sự kiện chính trị, văn hóa, diễn ra trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, UBND tỉnh đã chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa, thể thao mang tầm khu vực và quốc gia; trong đó sự kiện 400 năm Phú Yên và khai mạc Năm Du lịch quốc gia Duyên hải Nam Trung Bộ - Phú Yên 2011 đã thành công tốt đẹp. Phối hợp với Mặt trận TQVN tỉnh thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh. Trong các môn thể thao thành tích cao, võ thuật đạt được một số huy chương cấp quốc gia và quốc tế. Chất lượng báo chí, phát thanh, truyền hình ngày càng nâng cao. Bước đầu đã phát thanh tiếng dân tộc Êđê, Chăm H’roi đạt kết quả tốt. Báo Phú Yên đã ra nhật báo, Báo Phú Yên điện tử và trang thông tin điện tử bằng tiếng Anh.

 

- Quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường có tiến bộ. Chỉ đạo chặt chẽ việc sử dụng đất trồng lúa nước chuyển sang mục đích phi nông nghiệp phục vụ một số dự án, công trình xây dựng theo đúng quy hoạch được duyệt. Tập trung chỉ đạo cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến cuối năm 2010 đã cấp 331.785 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, với tổng diện tích 242.784ha, đạt 85,1% kế hoạch. Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản và kiểm tra xử lý các cơ sở sản xuất kinh doanh, cá nhân gây ô nhiễm môi trường. Đang rà soát các dự án khoáng sản để có chủ trương đầu tư phù hợp.

 

- Các chính sách dân tộc và tôn giáo được UBND tỉnh tổ chức thực hiện kịp thời. Quan tâm bố trí vốn đầu tư, đồng thời lồng ghép nhiều nguồn vốn để đầu tư phát triển miền núi. Chương trình 134, 135, chính sách trợ cước trợ giá, hỗ trợ đời sống đồng bào đặc biệt khó khăn đã góp phần phát triển sản xuất, ổn định đời sống bà con miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số. Các tôn giáo trên địa bàn tỉnh được tạo điều kiện thuận lợi để sinh hoạt theo hiến chương của giáo hội và pháp luật của Nhà nước.

 

5. Giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

 

UBND tỉnh rất chú trọng phát triển kinh tế - xã hội đồng thời với giữ vững quốc phòng – an ninh. Tập trung xây dựng các lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, phục vụ tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đã làm tốt công tác tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về an ninh quốc phòng. Tổ chức tốt diễn tập vận hành cơ chế theo Nghị quyết 02 và Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị cho các cấp, được Quân khu V đánh giá cao. Giao quân hàng năm hoàn thành 100% chỉ tiêu. Công tác bảo vệ an ninh vùng biển được tăng cường. Mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng – an ninh. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc đều khắp và đi vào chiều sâu. Tập trung chỉ đạo quyết liệt các biện pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông, tạo được chuyển biến tích cực trong công tác này.

 

6. Tăng cường chỉ đạo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí.

 

- Cùng với việc tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng cũng luôn được chú trọng. Thực hiện kiểm tra, thanh tra theo kế hoạch và đột xuất, tập trung vào một số lĩnh vực như: quản lý tài chính, điều hành và sử dụng ngân sách, xây dựng cơ bản, đất đai… Duy trì lịch tiếp công dân của lãnh đạo UBND tỉnh vào ngày 28 hàng tháng. Phần lớn các đơn thư thuộc thẩm quyền đều được UBND tỉnh xem xét, giải quyết theo đúng quy định pháp luật, không để phát sinh các điểm nóng gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

 

- Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt được những kết quả tích cực. Các ngành, các cấp tiếp tục thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với nhiều hoạt động thiết thực gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thường xuyên đôn đốc, chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan chức năng đẩy nhanh tiến độ công tác điều tra và xử lý các vụ việc về tham nhũng.

 

7. Củng cố kiện toàn chính quyền các cấp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, chỉ đạo cải cách hành chính.

 

- Chỉ đạo thực hiện tốt công tác địa giới hành chính. Đã hoàn thành điều chỉnh địa giới hành chính huyện Tuy Hòa để thành lập 2 huyện: Đông Hòa, Tây Hòa và một số xã, phường, thị trấn; nâng cấp thị xã Tuy Hòa lên thành phố (đô thị loại 3) và nâng cấp huyện Sông Cầu lên thị xã. Bộ máy chính quyền các cấp, các cơ quan chuyên môn tỉnh được củng cố, kiện toàn đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Tổ chức tốt công tác quán triệt, triển khai thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND 7 huyện, 12 phường trên địa bàn tỉnh một cách chặt chẽ, đúng luật định. Quan tâm xây dựng và triển khai Đề án củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở, đảm bảo về số lượng và chất lượng hoạt động. Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có nhiều tiến bộ. Nhiều nội dung công việc quan trọng của chính quyền được nhân dân tham gia, tạo sự đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện.

 

- Các cơ quan chuyên môn tỉnh trong thời gian đầu nhiệm kỳ là 24 cơ quan, sau sắp xếp, kiện toàn chỉ còn 18 cơ quan trực thuộc. Qua sắp xếp, đã giảm về số lượng, đầu mối tổ chức, cơ bản khắc phục tình trạng phân tán và chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, hoạt động hiệu quả hơn, tham mưu kịp thời cho UBND tỉnh quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực. Chỉ đạo của UBND tỉnh trong công tác cán bộ được thực hiện chặt chẽ hơn, từng bước nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Việc tuyển dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện đúng quy định. Coi trọng việc bồi dưỡng cho CBCC theo tiêu chuẩn quy định đối với từng ngạch, từng chức danh. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi đào tạo sau đại học và thu hút sử dụng trí thức. Công tác thi đua khen thưởng được thực hiện kịp thời hơn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

- Cải cách hành chính được UBND tỉnh xác định là một nhiệm vụ mang tính đột phá và đã chỉ đạo thực hiện có kết quả bước đầu. Qua tổng kết 10 năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001-2010 đã cho thấy hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao hơn. Hoàn thành thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh (Đề án 30), vượt trước thời hạn hơn 2 tháng. Lề lối làm việc ở các cơ quan, đơn vị không ngừng được cải tiến. Việc thực hiện cơ chế “một cửa” ở tất cả các cơ quan, đơn vị và thí điểm thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” ở một số đơn vị đạt kết quả bước đầu; rút ngắn được thời gian, giảm phiền hà cho tổ chức, doanh nghiệp, công dân. Đặc biệt đã đẩy mạnh phân cấp cho các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, thành phố, gắn với công tác kiểm tra, hướng dẫn trên một số lĩnh vực đã tạo sự chủ động và nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố trong việc quyết định các công việc thuộc thẩm quyền. Cải cách tài chính công bước đầu có hiệu quả, tạo sự chủ động cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và phát huy quyền làm chủ của CBCC, tập thể người lao động trong kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn, tài sản Nhà nước, góp phần tiết kiệm, chống lãng phí. Nhiều công sở được đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp khang trang và đầu tư trang thiết bị làm việc tốt hơn trước.

 

8. Quan hệ chặt chẽ với các cơ quan liên quan để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định pháp luật.

 

UBND tỉnh luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương. Tạo lập mối quan hệ tốt với Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, tranh thủ được sự ủng hộ về cơ chế, chính sách và nguồn kinh phí. Tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Phối hợp với Thường trực HĐND tỉnh và các ban HĐND tỉnh chuẩn bị tốt nội dung trình các kỳ họp HĐND tỉnh. Thực hiện giải quyết, trả lời ý kiến kiến nghị của cử tri và triển khai nghiêm túc các Nghị quyết của HĐND tỉnh. Phối hợp chặt chẽ với UBMTTQVN tỉnh và các hội đoàn thể trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh. Thường xuyên giữ mối quan hệ với Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh, nhằm tăng cường pháp chế XHCN ở địa phương. Theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ UBND cấp huyện trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật.

 

ÐÁNH GIÁ CHUNG

 

Đánh giá chung trong nhiệm kỳ 2004-2011, mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng UBND tỉnh đã phát huy được sức mạnh tập thể và trách nhiệm của từng thành viên UBND tỉnh trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả nổi bật. Nền kinh tế của tỉnh ổn định và phát triển theo hướng bền vững. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu hàng năm đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, giảm dần giá trị sản xuất nông – lâm – thủy sản trong cơ cấu GDP. Công nghiệp giữ được tốc độ tăng trưởng cao. Sản xuất nông – lâm – thủy sản đạt khá. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng, thị trường xuất khẩu được mở rộng hơn. Thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Huy động vốn cho đầu tư cũng tăng đáng kể. Tăng trưởng kinh tế, đã góp phần giải quyết tốt hơn các vấn đề về văn hóa – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả đề án xóa nhà ở tạm cho người nghèo và các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Đời sống nhân dân trên địa bàn được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, không có hộ đói, giảm hộ nghèo. Các đối tượng chính sách được quan tâm chăm lo chu đáo. Chất lượng y tế, giáo dục được chú ý nâng cao. Quốc phòng – an ninh được giữ vững. Có nhiều đổi mới trong hoạt động của chính quyền các cấp, chỉ đạo, điều hành có hiệu quả hơn. Cải cách thủ tục hành chính đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo thuận lợi nhiều hơn cho người dân và doanh nghiệp. Một số chủ trương về phân cấp bước đầu có hiệu quả. Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường.

 

III. VỀ KHUYẾT ÐIỂM, TỒN TẠI

 

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011 còn một số khuyết điểm, hạn chế như:

 

1. Trong lĩnh vực kinh tế:

 

- Chỉ đạo, điều hành một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chậm. Ngành công nghiệp chưa có bước đột phá để tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp – xây dựng trong cơ cấu GDP. Chưa quan tâm đúng mức công tác nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi. Chỉ đạo phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, thủy sản nuôi trồng tuy được chú trọng nhưng chưa triệt để, còn tiềm ẩn nguy cơ tái phát, lây lan. Dịch vụ du lịch những năm cuối nhiệm kỳ có chuyển biến tích cực, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.

 

cat-lua110423.jpg

Đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. - Ảnh: D.T.XUÂN

 

- Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập, nhất là trong công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, sự gắn kết giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch ngành chưa đồng bộ. Công tác quy hoạch chi tiết xây dựng chưa được quan tâm đúng mức, nhiều vùng chưa có quy hoạch chi tiết nên gặp khó khăn trong quản lý. Công tác quản lý bảo vệ rừng, quản lý tài nguyên khoáng sản chưa chặt chẽ. Hiệu quả sử dụng đất còn thấp. Chậm phát hiện, xử lý việc lấn chiếm, xây dựng nhà ở trái phép và tình trạng gây ô nhiễm môi trường một số cơ sở sản xuất.

 

- Tổ chức thực hiện quy chế làm việc của UBND tỉnh có lúc chưa nghiêm. Kỷ cương, kỷ luật trong việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, họp, hội nghị của một số sở, ngành, địa phương chưa nghiêm túc; chưa có sự chuyển biến đáng kể trong việc giảm số lượng các cuộc họp. Chất lượng tham mưu trong một số lĩnh vực, một số trường hợp còn hạn chế, ảnh hưởng đến chỉ đạo điều hành chung của UBND tỉnh.

 

- Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư trong nhiệm kỳ qua đã đạt được một số kết quả nổi bật về số lượng dự án đăng ký đầu tư; nhưng việc nắm bắt thông tin về uy tín, năng lực tài chính của nhà đầu tư còn yếu, nên nhiều dự án đăng ký chậm triển khai, không triển khai, phải thu hồi giấy phép đầu tư.

 

- Công tác xây dựng cơ bản là một trong những lĩnh vực được UBND tỉnh tập trung nhiều công sức chỉ đạo, điều hành và từng bước có chuyển biến, tuy nhiên đây vẫn là lĩnh vực còn nhiều bất cập về thủ tục, yếu kém về quản lý, chậm về tiến độ, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển chưa cao; nhất là các dự án thủy lợi triển khai rất chậm, có trường hợp xảy ra vi phạm pháp luật trong quá trình triển khai như: dự án kè Bạch Đằng, dự án chỉnh trị cửa sông Đà Nông. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư kéo dài, mặc dù đã có nhiều giải pháp chấn chỉnh, nhưng đây vẫn còn là khâu yếu.

 

- Thu ngân sách tuy đạt dự toán HĐND tỉnh giao, nhưng cơ cấu thu không đảm bảo. Việc chỉ đạo công tác sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước thực hiện còn chậm. Công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là hậu kiểm sau cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chưa chặt chẽ.

 

2. Trong lĩnh vực xã hội:

 

- Tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa – xã hội còn lúng túng. Chỉ đạo triển khai Nghị quyết của HĐND tỉnh về chuyển các trường bán công và các trường mầm non bán công, dân lập thành công lập chưa đồng bộ. Tình trạng trẻ em bỏ học giữa chừng chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoa học và công nghệ phát triển chậm, vẫn ở mức thấp so với nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ thực hiện còn dàn trải, hiệu quả ứng dụng phục vụ sản xuất đời sống chưa cao.

 

- Chất lượng khám chữa bệnh được cải thiện tốt hơn trước, song vẫn còn tình trạng một số ít y, bác sĩ, nhân viên y tế có thái độ phục vụ bệnh nhân chưa tốt, gây phiền hà cho nhân dân. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tuyến xã, huyện tuy được tăng cường nhưng vẫn chưa giải quyết được tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến tỉnh.

 

- Chất lượng nguồn nhân lực tuy đã được cải thiện nhưng chưa đáng kể. Một số chính sách của tỉnh đã ban hành nhưng triển khai chậm như: Chính sách về thu hút, sử dụng trí thức. Tỉ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề tuy được nâng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lao động phổ thông chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số lao động toàn tỉnh. Giảm nghèo thiếu bền vững, hộ tái nghèo còn cao. Thu nhập của một bộ phận nhân dân còn thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, nhất là vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

 

3. Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

 

- Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh quốc phòng có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn các huyện miền núi, một số vùng nông thôn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Tai nạn giao thông đường bộ giảm nhưng chưa vững chắc.

 

- Về khiếu nại, nhất là việc thu hồi đất, bồi thường tái định cư ở một số địa phương chưa được chỉ đạo giải quyết kịp thời, thỏa đáng. Một số quyết định xử lý sau thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được tổ chức thực hiện nghiêm túc.

 

4. Trong công tác cải cách hành chính:

 

Công tác cải cách hành chính có tiến bộ hơn, nhưng chưa thực sự tạo được bước đột phá như mục tiêu đề ra. Thủ tục hành chính một số lĩnh vực còn phức tạp. Sự liên thông, phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong giải quyết thủ tục hành chính có lúc không đồng bộ. Tổ chức triển khai mô hình cải cách hành chính theo cơ chế “Một cửa liên thông” còn lúng túng. Thời gian giải quyết một số hồ sơ, công việc tại UBND tỉnh và một số sở, ban, ngành còn chậm so quy định. Kỷ cương, kỷ luật hành chính, tinh trần trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức tuy được chấn chỉnh, nhưng vẫn còn một bộ phận chưa có chuyển biến rõ rệt.

 

IV. NGUYÊN NHÂN

 

1. Nguyên nhân những kết quả đạt được:

 

- Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua là nhờ có sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ, các bộ ngành Trung ương, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, giám sát của HĐND tỉnh, phối hợp của Mặt trận và các đoàn thể và sự cố gắng, nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao của UBND tỉnh trong chỉ đạo điều hành, nắm bắt được cơ hội, khai thác nội lực của nền kinh tế kết hợp với tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư phát triển.

 

- UBND tỉnh được kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm quý báu từ nhiệm kỳ trước, đồng thời có sự năng động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành, từng bước tích lũy kinh nghiệm để quản lý ngày càng tốt hơn. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo, đem lại hiệu quả thiết thực, nhất là ở địa bàn các huyện miền núi.

 

2. Nguyên nhân khuyết điểm, tồn tại:

 

Những tồn tại, khuyết điểm nêu trên có yếu tố khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan trong chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh vẫn là chủ yếu, đó là:

 

- Quản lý, điều hành của UBND tỉnh có lúc, có nơi còn chưa tập trung, thiếu đồng bộ, thiếu kiên quyết hoặc chưa kịp thời. Công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch trên một số ngành, lĩnh vực còn có mặt bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc dự báo, thu thập, phân tích các nguồn thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của tỉnh có lúc chưa đầy đủ, thiếu kịp thời. Chậm tổng kết thực tiễn và rút kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành. Giải quyết công việc của UBND tỉnh đôi lúc còn sa vào sự vụ. Công tác kiểm tra đôn đốc các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện các kết luận hội nghị, các ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch, các phó Chủ tịch UBND tỉnh chưa nghiêm. Một số vấn đề yếu kém trong chỉ đạo điều hành chậm được khắc phục, nhất là trong các lĩnh vực: XDCB, đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản…

 

- Chỉ đạo công tác tổ chức, bộ máy còn bất cập. Cơ cấu tổ chức bộ máy của một số sở, ngành chưa thật sự tinh gọn. Chậm củng cố, kiện toàn các Ban quản lý dự án. Một số trường hợp bố trí, sắp xếp CBCC chưa phù hợp, chất lượng đội ngũ CBCC không đồng đều. Vẫn còn một bộ phận cán bộ công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.

 

- Chỉ đạo công tác tự thanh tra, kiểm tra của thủ trưởng các ngành, các cấp đôi lúc chưa thường xuyên, do đó chưa có biện pháp phòng ngừa những sai sót trong quản lý và xử lý một số vụ việc sai phạm. Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở cơ quan, doanh nghiệp có lúc, có nơi còn mang tính hình thức.

 

V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

 

Từ những thành tựu đạt được và khuyết điểm, tồn tại qua 7 năm chỉ đạo, điều hành, UBND tỉnh rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

 

- Một là: Phải bám sát chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của UBND tỉnh theo quy định của pháp luật để xác định đúng vấn đề trọng tâm chỉ đạo, điều hành. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương và các nguồn lực khác từ bên ngoài để khơi dậy, khai thác tiềm năng sẵn có của tỉnh, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

 

- Hai là: Chú trọng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; thông tin kịp thời chính xác, đúng định hướng của Đảng, Nhà nước. Làm tốt công tác này sẽ góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, để người dân có điều kiện tham gia xây dựng và giám sát thực hiện các chính sách, kế hoạch, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội khi thực hiện.

 

- Ba là: Phải nắm vững chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các thông tin dự báo phân tích kinh tế để tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời và linh hoạt đề ra quyết sách hợp lý, đúng đắn trong điều hành kinh tế - xã hội, hạn chế, phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt chú trọng khâu tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn đảm bảo thực thi nghiêm túc. Có như vậy công tác chỉ đạo, điều hành mới mang lại hiệu quả cao.

 

- Bốn là: Phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung, dân chủ và quy chế làm việc của UBND tỉnh. Phát huy vai trò của tập thể lãnh đạo gắn với trách nhiệm cá nhân của từng thành viên UBND tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ được phân công với tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm lớn; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

 

- Năm là: Trong công tác lãnh đạo, điều hành của UBND tỉnh phải gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh - quốc phòng; chăm lo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội; coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường. Tạo điều kiện thuận lợi về chính sách để các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng nhằm huy động mọi tiềm lực của địa phương. Tăng nguồn lực đầu tư và hỗ trợ an sinh xã hội các vùng khó khăn để ổn định xã hội, làm giảm sự chênh lệch giữa các vùng, miền trong tỉnh.

 

- Sáu là: Phải tạo được bước đột phá trong cải cách hành chính trên tất cả các mặt: cải cách thể chế, thủ tục hành chính; cải cách về tổ chức bộ máy, cán bộ; cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính. Đẩy mạnh phân cấp quản lý ở một số lĩnh vực cho cấp dưới, gắn với việc thường xuyên kiểm tra của cấp trên, để việc tổ chức thực hiện đồng bộ.

Trong chỉ đạo, điều hành, phải thực hiện thưởng - phạt nghiêm minh. Phát huy tốt dân chủ ở cơ sở, mở rộng và nâng cao chất lượng các phong trào ở cơ sở. Chỉ đạo tập trung giải quyết tốt khiếu nại tố cáo từ cơ sở.

 

Trên đây là báo cáo tổng kết hoạt động của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011.

 

TM.UBND TỈNH

CHỦ TỊCH

PHẠM ĐÌNH CỰ

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek