Sáng 6/11, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thảo luận tại hội trường về những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Trước phiên thảo luận, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự luật này.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự luật Đất đai (sửa đổi). |
Trong quá trình thảo luận về Luật Đất đai (sửa đổi), quy định về thu hồi đất và giá đất được rất nhiều ĐB quan tâm. Ông Nguyễn Văn Giàu cho biết, có ý kiến tán thành thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội nhưng phải vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; làm rõ công trình hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt là vì mục đích dự trữ quốc gia thì Nhà nước thu hồi đất; nhưng nếu vì lợi ích của doanh nghiệp thì phải thỏa thuận với người sử dụng đất. Có ý kiến đề nghị không quy định Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội.
Về vấn đề này, UBTVQH cho rằng, để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp đã dự kiến quỹ đất sử dụng cho mục đích phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước chỉ thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội quy mô lớn, quan trọng của đất nước được quy định tại Điều 62. Đối với các công trình hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 62 là các công trình phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Các dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất gia đình, cá nhân đang sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất được quy định tại Điều 73.
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội; gộp thành một điều vì rất khó tách bạch giữa mục đích phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng với mục đích phát triển kinh tế - xã hội.
Theo ông Nguyễn Văn Giàu, UBTVQH tiếp thu và bổ sung quy định tại Điều 62 về các trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Với ý kiến đề nghị “trường hợp nhà đầu tư đã thỏa thuận được từ 70 đến 80 % số người sử dụng đất trong dự án mà số người sử dụng đất còn lại không đồng ý thì Nhà nước cần có cơ chế để xử lý”, UBTVQH cho biết dự luật đã quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội để hạn chế việc thu hồi đất tràn lan gây bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân.
Nhà đầu tư thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội có nhu cầu sử dụng đất sẽ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế hoặc được Nhà nước bàn giao mặt bằng để thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, dự án phát triển hạ tầng. Việc thỏa thuận để chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất giữa gia đình, cá nhân sử dụng đất với nhà đầu tư chỉ thực hiện đối với những dự án không thuộc trường hợp Nhà nước trực tiếp thu hồi đất, thường là những dự án nhỏ, lẻ. Đây là thỏa thuận mang tính dân sự theo nguyên tắc bình đẳng trên cơ sở các quyền hợp pháp của người sử dụng đất, vì vậy không nên quy định cơ chế can thiệp bằng biện pháp hành chính của Nhà nước.
Với ý kiến đề nghị trước khi ra quyết định cưỡng chế cần tổ chức đối thoại công khai với người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, UBTVQH tiếp thu và bổ sung quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 71.
Ông Nguyễn Văn Giàu cho biết, về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, có ý kiến đề nghị việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đang sử dụng hợp pháp, người có đất khi Nhà nước thu hồi được hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất, bảo đảm đời sống. UBTVQH xin tiếp thu và bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hướng phân biệt rõ việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Theo đó, bồi thường là bù đắp những thiệt hại cho người có đất do việc thu hồi đất gây ra như thiếu đất sản xuất, nhà ở, sản xuất bị gián đoạn, lợi nhuận bị giảm sút, cuộc sống, sinh hoạt bị ảnh hưởng. Việc bồi thường có thể bằng đất, bằng tiền. Đối với hỗ trợ không phải là để bù đắp phần bồi thường chưa thỏa đáng mà xác định đây là việc Nhà nước tạo điều kiện cho người có đất thu hồi có cuộc sống tốt hơn.
Tái định cư được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm khi thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở thì phải bố trí chỗ ở cho người có đất thu hồi, nếu tiền bồi thường không đủ mua suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ đủ để mua suất tái định cư tối thiểu. Có ý kiến đề nghị quy định giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải theo mục đích sử dụng đất trong quy hoạch. Có ý kiến đề nghị Nhà nước có chính sách điều tiết chênh lệch giá đất do quy hoạch cho người dân. Về vấn đề này, UBTVQH cho rằng, giá đất tăng lên sau khi có quy hoạch là do đất đó được chuyển mục đích sử dụng hoặc đã được đầu tư hạ tầng.
“Phần giá trị tăng lên này không phải do công sức đầu tư của người sử dụng đất nên Nhà nước cần điều tiết và bổ sung vào ngân sách địa phương để đầu tư cơ sở hạ tầng và hỗ trợ cho người có đất thu hồi nhằm ổn định đời sống và chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm” – ông Giàu giải thích.
Về giá đất, ông Giàu cho biết, có ý kiến đề nghị xem xét lại, quy định cụ thể về nguyên tắc định giá đất. UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh sửa Điều 112 theo hướng quy định rõ nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá; theo thời hạn sử dụng đất; phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất hoặc giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất; cùng một thời điểm các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau. Về ý kiến đề nghị bỏ quy định Chính phủ ban hành khung giá đất, UBTVQH báo cáo như sau: việc quy định như dự luật là bám sát quan điểm và nội dung đã được nêu trong Nghị quyết của Đảng và phù hợp với quy định của Luật Giá. Mặt khác, quy định khung giá đất nhằm hạn chế chênh lệch lớn về giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các vùng, các địa phương. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như dự luật.
Với ý kiến đề nghị nên xây dựng bảng giá đất định kỳ hàng năm hoặc 2 năm 1 lần hoặc 5 năm 2 lần, UBTVQH cho rằng, bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành làm căn cứ để tính toán các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất với Nhà nước như thu tiền sử dụng đất đối với gia đình, cá nhân; thuế; phí, lệ phí liên quan đến đất đai. Dự luật đã quy định khi giá đất thị trường có biến động lớn thì điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp. Vì vậy, UBTVQH đề nghị QH cho giữ quy định như trong dự luật. Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định rõ tỷ lệ khi giá đất thị trường biến động từ 15 đến 20% thì phải điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất, ông Giàu cho biết dự luật chỉ quy định nguyên tắc chung khi giá đất thị trường có biến động lớn thì điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất cho phù hợp. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của luật, mức biến động cụ thể về giá đất thị trường không nên quy định trong luật mà quy định trong nghị định của Chính phủ nhằm đảm bảo phù hợp với từng loại đất, từng vùng, theo từng thời gian.
Tham gia thảo luận, một số ĐBQH tiếp tục tỏ ra băn khoăn về các quy định liên quan đến thu hồi đất, định giá đất, và bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất. ĐB Đặng Thuần Phong (Bến Tre) nhất trí với quy định tái định cư được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm khi thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở thì phải bố trí chỗ ở cho người có đất thu hồi, nếu tiền bồi thường không đủ mua suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ đủ để mua suất tái định cư tối thiểu. Đây là quy định có tính nhân văn, tuy nhiên nếu không làm rõ thì sẽ dẫn tới hệ lụy là mỗi tỉnh có quy định về suất tái định cư tối thiểu khác nhau. Vì thế, đề nghị giao Chính phủ quy định rõ hơn, đừng để vấn đề này giống lương tối thiểu và mức sống tối thiểu, quy định ra nhưng thực tế có nhiều bất cập.
Trong khi đó, ĐB Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận) thẳng thắn cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là chưa phù hợp, thậm chí có thể trái với Bộ luật Dân sự. Khái niệm sở hữu toàn dân quá chung, không phù hợp với thực tế. Đề nghị nên quy định theo hướng đất đai thuộc sở hữu nhà nước, như vậy cũng không làm sai tính chất của chế độ, bởi nhà nước ta là nhà nước do dân, vì dân, do nhân dân lập nên. Quy định về giá đất trong dự luật còn quá chung chung, không giải quyết được mong muốn của người dân bị thu hồi đất. Cần quy định thêm việc định giá đất phải tính đến lợi nhuận hình thành trong tương lai của thửa đất bị thu hồi. Làm như thế mới bảo đảm nguyên tắc người dân bị thu hồi đất sau khi tái định cư có cuộc sống bình thường, bằng hoặc hơn với cuộc sống trước đây. Đề nghị thêm quy định mang tính nguyên tắc, theo đó giá đất đền bù phải công bằng với giá đất của thị trường.
Đối với việc thu hồi đất phục vụ các công trình hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt, là các công trình phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, theo ĐB Đàng Thị Mỹ Hương, dù UBTVQH đã giải trình nhưng vẫn chưa rõ. Cần quy định rõ nếu xây dựng công trình xăng dầu vì mục đích dự trữ quốc gia thì có thể được, còn nếu vì lợi ích của doanh nghiệp thì phải thỏa thuận với dân.
Đồng ý sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng ĐB Nguyễn Thị Hồng Hà (Hà Nội) cho rằng cần bổ sung cơ chế đại diện của người dân về sở hữu đất đai. Bên cạnh đó, cần quy định 1 điều riêng về nhà nước thu hồi đất cho dự án kinh tế - xã hội, bởi đây là vấn đề gây ra nhiều bức xúc nhất trong thực tế. Thế nào là xác định giá đất theo thị trường, chính quyền căn cứ vào đâu để nói giá đất được tính đúng, tính đủ? Muốn trả lời câu hỏi này, cần làm rõ vai trò của cơ quan tư vấn giá đất trong dự luật.
Quan tâm nhiều tới vấn đề thu hồi đất, ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) cho biết, qua thảo luận nhiều ý kiến đề nghị không nên thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội và áp dụng phương thức trưng mua đối với các dự án này, nhưng đến nay chưa nhận được sự đồng thuận từ phía cơ quan soạn thảo. Nếu tiếp tục giữ quy định này thì vấn đề khiếu kiện về đất đai vẫn là “điểm nghẽn”, chưa có lời giải.
Trong đó, cần tách các dự án kinh tế vì lợi ích thuần túy của nhà đầu tư ra khỏi phạm vi các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong chính sách thu hồi đất. Về kiến nghị cụ thể, ĐB Trần Ngọc Vinh cho rằng chỉ nên quy định chỉ các dự án do nhà nước quyết định phê duyệt đầu tư thì nhà nước mới thu hồi đất. Đồng tình quan điểm này, ĐB Huỳnh Minh Hoàng kiến nghị với các dự án kinh tế vì lợi ích thuần túy của nhà đầu tư thì nhà nước không áp dụng cơ chế thu hồi đất. Thay vào đó là cơ chế góp đất, điều chỉnh lại đất đai. Có nghĩa là hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với nhà đầu tư để thực hiện dự án.
Trong khi đó, ĐB Vũ Xuân Trường (
Chiều nay, QH tiếp tục làm việc tại hội trường, nghe Chính phủ trình một số dự án luật.
Theo SGGPO