Thứ Ba, 15/10/2024 13:20 CH
Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XIV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV
Thứ Năm, 16/09/2010 07:30 SA

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TOÀN ĐẢNG BỘ; PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN; ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐƯA PHÚ YÊN TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG

 

Từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đến nay, bên cạnh những thuận lợi cơ bản: nền kinh tế tỉnh nhiều năm qua tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, những thành tựu của gần 25 năm đổi mới đã và đang được phát huy…, tỉnh ta phải đương đầu với những khó khăn, thách thức do thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, tác động của lạm phát, suy giảm kinh tế chung của cả nước... Trong bối cảnh đó, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong tỉnh đã đoàn kết, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, ra sức thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra.

 

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV có nhiệm vụ: kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ qua, khẳng định những thành tựu, ưu điểm, phân tích nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém và những bài học kinh nghiệm; đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho toàn Đảng bộ trong 5 năm nhiệm kỳ XV (2010 - 2015).

 

PHẦN THỨ NHẤT: KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV (2006-2010)

 

I/ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:

 

Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của giai đoạn 2006-2010:

 

kqdh100916.jpg
 

 

Trên các lĩnh vực đạt được những kết quả cụ thể như sau:

 

1- Về phát triển kinh tế:

 

Nền kinh tế tiếp tục có bước tăng trưởng khá, tốc độ GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 12,3% (bình quân giai đoạn 2001-2005 là 10,3%). Trong đó: khu vực nông-lâm-thủy sản đạt 3,3%; khu vực công nghiệp-xây dựng 17,4%; khu vực dịch vụ 13,6%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, đến cuối năm 2010 tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP dự kiến như sau: công nghiệp-xây dựng chiếm 34,9%; dịch vụ chiếm 36,4%; nông-lâm-thủy sản chiếm 28,7%. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 15,6 triệu đồng, đạt 156% so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

 

1.1- Sản xuất công nghiệp phát triển khá. Giá trị gia tăng công nghiệp-xây dựng  bình quân 17,4%. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện; đã phát triển ngành công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu tập trung như: mía đường, tinh bột sắn, chế biến thuỷ sản…; phát triển một số ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao như: thủy điện, bia, nước giải khát, phân bón, đá ốp lát, dược phẩm… và một số ngành công nghiệp giải quyết nhiều lao động như: chế biến nhân hạt điều, may mặc… Một số sản phẩm như: đường RE, thủy sản khô, hạt điều, đồ gỗ, may mặc có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.

 

Đã đưa vào hoạt động nhà máy chế biến tinh bột sắn Đồng Xuân, nhà máy lắp ráp ô tô JRD, nhà máy phân bón tại KCN Đông Bắc Sông Cầu và một số nhà máy, phân xưởng chế biến các sản phẩm thủy hải sản, may mặc, đồ gỗ, bia-nước giải khát, đá ốp lát… Hoàn thành việc nâng công suất các nhà máy như: nhà máy tinh bột sắn Sông Hinh, nhà máy đường KCP…; chuẩn bị khởi công xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô.

 

Công tác thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp được chú trọng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư từng bước hoàn chỉnh. Đến tháng 6 năm 2010 có 67 dự án đăng ký đầu tư vào các khu công nghiệp, trong đó có 55 dự án đi vào sản xuất. Các làng nghề truyền thống đang được khôi phục và tạo điều kiện để phát triển, đến nay có 7/18 làng nghề được công nhận, cùng với các hợp tác xã góp phần phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn như: chế biến mây tre lá, gạch ngói, nước mắm, đan lát...

 

1.2- Dịch vụ phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, đạt 13,6%/năm; tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ bình quân 5 năm 2006-2010 ước đạt 22,9%/năm. Các hoạt động dịch vụ tiếp tục được mở rộng và nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân.

 

Hoạt động thương mại tiếp tục phát triển, việc phổ biến thông tin về Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được chú trọng triển khai đến các doanh nghiệp. Đã hình thành được hệ thống chợ và một số siêu thị, cộng với sự tham gia của 29.231 cơ sở kinh doanh đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa, dịch vụ của nhân dân. Thực hiện tốt việc trợ cước, trợ giá, bảo đảm cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu và các mặt hàng chính sách phục vụ nhân dân miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng vốn hỗ trợ bình quân 5 năm 2006-2010 khoảng 2 tỉ đồng/năm.

 

Vận tải phát triển khá, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và phát triển kinh tế. Đưa vào sử dụng Cảng Vũng Rô (giai đoạn 1- năng lực thiết kế 250.000 tấn/năm), lượng hàng hoá thông qua cảng tăng mạnh qua từng năm, năm 2010 khả năng đạt gấp 2 lần năng lực thiết kế. Đã đưa vào khai thác các tuyến xe khách chất lượng cao gắn với hình thành một số thương hiệu vận tải mạnh; hệ thống vận tải công cộng bằng xe buýt phát triển nhanh, cơ bản đã nối đến các thị trấn và các điểm dân cư tập trung. Về hàng không, đã nâng tần suất tuyến bay thành phố Hồ Chí Minh - Tuy Hoà - thành phố Hồ Chí Minh lên 7 chuyến/tuần, mở mới tuyến bay Hà Nội - Tuy Hoà - Hà Nội tần suất 5 chuyến/tuần. 

 

Hoạt động du lịch có bước chuyển biến tích cực. Đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch, xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch được chú trọng; một số dự án quy mô lớn đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả; hệ thống cơ sở lưu trú phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Đến nay, toàn tỉnh có 70 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch và 10 khu, điểm vui chơi giải trí; có 1.484 phòng lưu trú với 2.380 giường, tăng gấp 2,26 lần so 2005, trong đó có 678 phòng đạt chuẩn 3 sao trở lên. Lượt khách du lịch tăng bình quân 35%/năm, trong đó khách quốc tế tăng bình quân 50%/năm, doanh thu du lịch tăng 77%/năm.

 

Dịch vụ viễn thông phát triển mạnh, đến năm 2010 ước đạt 80 máy điện thoại/100 dân, tỷ lệ người dân sử dụng Internet đạt xấp xỉ 30 người/100 dân. Doanh thu bưu chính - viễn thông tăng nhanh, bình quân trên 34%/năm. Chất lượng dịch vụ bưu chính được cải thiện. Hoạt động vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện, thư từ, công văn nhanh chóng, chính xác. Đã triển khai hoạt động viễn thông công ích tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

 

Dịch vụ ngân hàng tiếp tục phát triển, tăng trưởng tổng dư nợ tín dụng hàng năm 25%, năm 2010 ước đạt 8.600 tỷ đồng, trong đó cho vay trung, dài hạn chiếm 42%. Đã thu hút được một số ngân hàng thương mại cổ phần đặt chi nhánh, phòng giao dịch tại tỉnh như: Ngân hàng Sài Gòn-Thương Tín, Ngân hàng Ngoại Thương, Ngân hàng Đông Á...

 

1.3- Nông - lâm - thủy sản tuy gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định. Giá trị gia tăng trong ngành nông-lâm-thủy sản bình quân 5 năm đạt 3,3%. Cơ cấu ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực, đúng hướng, tạo tiền đề cho phát triển ngành nông- lâm- ngư nghiệp toàn diện.

 

Trong sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng-vật nuôi tiếp tục chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ. Một số dịch vụ trong nông nghiệp như: dịch vụ làm đất, dịch vụ thu hoạch, bảo vệ thực vật, phân bón… hoạt động tương đối có hiệu quả. Sản lượng lương thực có hạt bình quân hàng năm đạt ổn định trên 32 vạn tấn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu lương thực cho tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh và một phần cung ứng ra ngoài tỉnh; giá trị trên một đơn vị diện tích canh tác được nâng lên, ước năm 2010 bình quân giá trị sản phẩm trồng trọt đạt 29 triệu đồng/ha canh tác, tăng 1,7 lần so với năm 2005; xuất hiện một số mô hình luân canh, xen canh đạt hiệu quả cao, doanh thu bình quân đạt 70-160 triệu đồng/ha/năm; đã hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp gắn với nhà máy chế biến đường, tinh bột sắn. Đã phát triển cây cao su ở một số địa phương có điều kiện phù hợp, diện tích trồng mới tăng từ 1.461ha năm 2005 lên 3.000ha năm 2010.

 

Phát triển chăn nuôi theo quy mô thích hợp, chú trọng hơn trong công tác chọn con giống phù hợp với điều kiện từng vùng; kết hợp đổi mới phương thức chăn nuôi hiệu quả gắn với phòng chống dịch bệnh. Số lượng tổng đàn gia súc của tỉnh tuy giảm so với năm 2005, nhưng chất lượng được nâng lên. Bước đầu đã xuất hiện một số mô hình chăn nuôi tập trung theo hình thức trang trại, công nghiệp gắn với công tác thú y phòng chống dịch bệnh. Đến năm 2010, đàn bò 193.000 con, giảm 4,3% so với năm 2005, nhưng tỉ lệ đàn bò lai đạt 50%, tăng 15,7% so với năm 2005; đàn lợn 131.500 con, giảm 33,2%, đàn gia cầm khoảng 2,3 triệu con, tăng 2,7% so với năm 2005.

 

Đã hoàn thành rà soát quy hoạch 3 loại rừng, tập trung đẩy mạnh trồng rừng kinh tế theo phương thức thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng sản lượng sinh khối của rừng trồng. Đã thu hút được các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng sản xuất, bước đầu phát triển lâm nghiệp gắn với tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Tỉ lệ độ che phủ rừng từng bước cải thiện, đến năm 2010 tỉ lệ độ che phủ rừng (theo tiêu chí mới) ước đạt 34,9%.

 

Sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển, năng lực khai thác được tăng cường. Tổng số tàu thuyền trong tỉnh 7.187 chiếc, với tổng công suất 204.663 CV, tăng 3.090 chiếc so với năm 2005, tổng công suất tăng thêm 72.083 CV. Sản lượng thủy sản năm 2010 đạt khoảng 45 nghìn tấn, tăng 16,6% so năm 2005, trong đó sản lượng nuôi trồng là 9.000 tấn, tăng gấp 2,8 lần so năm 2005. Đã có sự chuyển dịch trong các đối tượng nuôi, mở rộng một số đối tượng nuôi mới, có hiệu quả như tôm thẻ chân trắng, tu hài, cá bớp, cá mú, rong sụn… Hoàn thành và đưa vào sử dụng cảng cá Tiên Châu, Khu neo đậu tàu thuyền và tránh trú bão cho tàu thuyền vịnh Xuân Đài - đầm Cù Mông; đang triển khai đầu tư Cảng cá Phú Lạc.

 

Kết cấu hạ tầng ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh từng bước được cải thiện, kinh tế nông thôn và đời sống nông dân tiếp tục được quan tâm hơn. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mới và nâng cấp đường giao thông nông thôn, tạo thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân và kết nối giữa các vùng. Đến năm 2010, 100% xã được đầu tư từ Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, nâng tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt 70%... Đầu tư xây dựng một số cụm công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp… tác động tích cực đến phát triển sản xuất, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo.

 

1.4- Về tài chính-ngân sách: Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả khá. Tỉ lệ tăng thu ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 21%/năm; năm 2010 ước đạt 1.130 tỉ đồng, tương ứng 65,6% chi thường xuyên.

 

Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 3.818 tỉ đồng, cơ bản đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh, nhất là chi đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội.

 

1.5- Về huy động vốn đầu tư phát triển: Đã huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nhất là các nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn của Bộ, ngành Trung ương để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Trong 5 năm đã huy động 28.254 tỉ đồng, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (cả nguồn trái phiếu Chính phủ và ODA) chiếm 32,1%, vốn khu vực tư nhân và dân cư chiếm gần 32,9%, vốn FDI chiếm 24%, vốn do doanh nghiệp nhà nước và các nguồn khác chiếm 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tổng số dự án đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh  trong giai đoạn 2006 - 2010 là 58 dự án với vốn thực hiện 2.895 tỷ đồng, trong đó 50 dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, 8 dự án đang triển khai.

 

1.6- Phát triển kết cấu hạ tầng:

 

1.6.1- Về giao thông: Đã phối hợp với Bộ Giao thông - Vận tải đầu tư nâng cấp, cải thiện một số công trình trên tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 25. Triển khai đầu tư và đưa vào sử dụng từng phần một số tuyến giao thông quan trọng của tỉnh như: Trục giao thông phía Tây, tuyến giao thông ven biển nối TP Tuy Hòa – Gành Đá Đĩa, tuyến động lực phía Nam nối thành phố Tuy Hòa đến Cảng Vũng Rô... Các tuyến đường huyện, đường nội thị thị trấn được nhựa hoá và bê tông hoá với tốc độ nhanh, hầu hết các trục đường nội thị thị trấn đã được nhựa hoá; cơ bản các xã đã có đường ô tô đến trung tâm. Đã huy động và lồng ghép nhiều nguồn vốn để tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình giao thông nông thôn, bê tông hóa hè phố, hẻm phố; kiên cố hoá giao thông nông thôn bình quân hàng năm đạt 0,85km/xã.

 

1.6.2- Về thủy lợi: Hệ thống thủy lợi được chú trọng đầu tư; hệ thống đê kè được củng cố. Hoàn thành và đưa vào sử dụng một số công trình: kênh mương hồ chứa nước Đồng Tròn, kênh mương cấp nước sau thủy điện Sông Hinh giai đoạn 1, hồ chứa nước Xuân Bình. Đầu tư mới, sửa chữa, nâng cấp một số hồ chứa, trạm bơm điện, đập dâng, hệ thống kênh mương. Tiếp tục triển khai Chương trình kiên cố hoá kênh mương; khởi công xây dựng các hồ chứa nước từ nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ và hệ thống kênh tưới.

 

Năng lực tưới của hệ thống thủy lợi từng bước được nâng lên, tỉ lệ diện tích cây trồng được tưới tăng từ 42,9% năm 2005 lên 44,1% năm 2010; trong đó diện tích lúa được tưới ổn định tăng từ 83,2% năm 2005 lên 90% năm 2010. Đến năm 2010, năng lực của các công trình thủy lợi đảm bảo tưới chủ động cho khoảng 55.700 ha gieo trồng.

 

1.6.3- Về điện: Đưa vào hoạt động dự án thủy điện sông Ba Hạ 220 MW, Krông Năng 64 MW. Đang triển khai một số dự án thủy điện nhỏ trên địa bàn như Thủy điện La Hiên, Khe Cách, Đá Đen… Hoàn thành việc đầu tư cải tạo lưới điện TP Tuy Hòa, lưới điện nông thôn thuộc Dự án năng lượng nông thôn II; đưa vào sử dụng tuyến 220KV và 110KV Quy Nhơn-Tuy Hòa- Nha Trang… Mạng lưới điện sinh hoạt được phủ khắp đến các thôn, buôn.

 

1.6.4- Về bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin: Hạ tầng bưu chính, viễn thông được cải thiện mạnh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Toàn tỉnh đã xây dựng 500 trạm gốc BTS, 118 điểm phục vụ dịch vụ bưu chính- viễn thông, trong đó có 28 bưu cục chuyển phát, 78 điểm bưu điện văn hóa xã; bán kính phục vụ bình quân là 3,5 km.

 

Phát triển mạng thông tin chuyên dụng đến xã, phường, thị trấn, mạng thông tin dành riêng của các ngành Thuế, Ngân hàng, Bảo hiểm và mạng thông tin diện rộng dành riêng của khối các cơ quan Đảng, khối cơ quan quản lý Nhà nước.

 

1.6.5- Về phát triển đô thị: Đã tiến hành điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP Tuy Hòa và vùng phụ cận đến năm 2025 và quy hoạch khu đô thị mới Nam TP Tuy Hòa tỉ lệ 1/2000; tiếp tục đầu tư và mở rộng thành phố Tuy Hòa, trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của tỉnh theo hướng hiện đại. Tập trung đầu tư nâng cấp hạ tầng đô thị Sông Cầu, hoàn thành việc đưa huyện Sông Cầu trở thành thị xã. Triển khai đầu tư hạ tầng các huyện lỵ chia tách, đến nay cơ bản hoàn thành việc đầu tư hạ tầng huyện lỵ mới Phú Hòa; đang triển khai đầu tư hạ tầng huyện lỵ Đông Hòa (Hòa Vinh), Tây Hoà (Phú Thứ); quy hoạch mở rộng thị trấn Củng Sơn-huyện Sơn Hòa và Chí Thạnh-huyện Tuy An. Đang triển khai một số khu tái định cư như: Khu tái định cư đô thị Nam TP Tuy Hòa, Khu tái định cư Phú Lạc, Dự án khu trung tâm hành chính và khu dân cư mới Xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa...

 

1.7- Về phát triển các thành phần kinh tế: Tập trung sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước theo phương án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đã sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hóa được 34 doanh nghiệp, hiện nay toàn tỉnh còn 6 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do địa phương quản lý chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ công ích. Nhiều doanh nghiệp sau sắp xếp hoạt động ổn định, có hiệu quả như: Công ty cổ phần PYMEPHARCO, Công ty cổ phần Vật tư tổng hợp Phú Yên, Công ty cổ phần An Hưng…

 

Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã được tiếp tục tạo điều kiện để củng cố, đổi mới, phát triển theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa IX) và Chỉ thị số 20-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X). Hiện nay toàn tỉnh có 144 HTX và 1.673 tổ hợp tác đang hoạt động, trong đó số HTX khá giỏi chiếm khoảng 40%. Một số chính sách về cho thuê đất, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác được triển khai đạt kết quả bước đầu.

 

Kinh tế tư nhân phát triển nhanh. Đến năm 2010, toàn tỉnh có khoảng 1.060 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có 150 công ty cổ phần. Đã thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp, nhà đầu tư ngoài tỉnh thành lập doanh nghiệp, chi nhánh để triển khai các dự án đầu tư tại tỉnh. Một số doanh nghiệp trong tỉnh mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực được khuyến khích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

Kinh tế cá thể tiếp tục phát triển, toàn tỉnh hiện có 44.294 hộ kinh doanh cá thể với 74.905 lao động đang làm việc. Kinh tế trang trại số lượng tăng không nhiều, nhưng quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng, toàn tỉnh hiện có 2.702 trang trại, tăng 68 trang trại, với tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh 396 tỉ đồng, bình quân đạt 146,6 triệu đồng/trang trại, tăng 55,5 triệu đồng so với năm 2005.

 

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng khá, toàn tỉnh có 33 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký hoạt động 1,733 tỉ USD (năm 2005 có 13 doanh nghiệp với tổng vốn là 81,69 triệu USD). Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) giữ vai trò chủ lực trong sản xuất một số ngành công nghiệp quan trọng của tỉnh như: mía đường, lắp ráp ô tô và đầu tư khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp-dịch vụ.

 

1.8- Phát triển kinh tế-xã hội vùng:

 

- Vùng miền núi: Kinh tế vùng miền núi trong những năm qua tăng trưởng khá, đã hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến; quy hoạch một số cụm công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp phục vụ phát triển kinh tế trong vùng. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội được quan tâm đầu tư, tập trung chủ yếu vào các công trình giao thông, thủy lợi, thủy điện, cấp nước, phát thanh, truyền hình, y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, hỗ trợ có mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn vốn khác với tổng vốn là 1.310 tỉ đồng (chưa tính nguồn vốn do các Bộ, ngành Trung ương trực tiếp đầu tư). Cuối năm 2010, 100% số thôn, buôn được sử dụng điện lưới quốc gia. Đời sống nhân dân các huyện miền núi ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

 

- Vùng biển và ven biển: Vùng biển và ven biển tiếp tục giữ vai trò là vùng kinh tế đầu tàu của cả tỉnh, phát triển kinh tế thủy sản, tập trung nhiều cơ sở công nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng được đầu tư khá đồng bộ, thuận lợi, gồm hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, cảng biển. Đã thành lập Khu kinh tế Nam Phú Yên có lợi thế để phát triển hệ thống cảng biển nước sâu, cảng hàng không, ga đường sắt, ngành công nghiệp lọc, hóa dầu, hóa chất, công nghiệp công nghệ cao; thị xã Sông Cầu ở phía Bắc với tiềm năng lớn về phát triển du lịch và công nghiệp mở ra triển vọng phát triển kinh tế - xã hội khu vực vùng biển và ven biển cho những năm sau này.

 

- Vùng đồng bằng: kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư; đã triển khai một số tuyến giao thông liên xã quan trọng, cải tạo lưới điện nông thôn và kiên cố hoá hệ thống thủy lợi nội đồng, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. Đã hình thành một số vùng tập trung thâm canh cây lương thực, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, rau, hoa và nhiều cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở tiểu thủ công nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

 

2- Về văn hoá - xã hội, khoa học công nghệ:

 

2.1- Giáo dục - đào tạo: Mạng lưới trường lớp phát triển hợp lý, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Hiện nay, toàn tỉnh có 299 trường phổ thông các cấp và 126 trường mầm non, mẫu giáo. Ở 3 huyện miền núi, mỗi huyện đều có trường trung học phổ thông, trường dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi được xây dựng khang trang.

 

Chất lượng giáo dục ở các cấp học có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đến năm 2010 toàn tỉnh có 99,5% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn. Thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, chủ động của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục; công tác quản lý chất lượng giáo dục được chú trọng.

 

Giáo dục ở vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được đầu tư phát triển. Cơ hội học tập cho trẻ em: người dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình chính sách, trẻ khuyết tật và có hoàn cảnh khó khăn được mở rộng. 100% số xã (phường, thị trấn) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học – xoá mù chữ. Đến cuối năm 2008, tỉnh Phú Yên được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS.

 

Cơ sở vật chất, thiết bị trường học được tăng cường, không còn lớp học ca 3. Toàn tỉnh có 74 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó mầm non là 09/126 trường, tiểu học là 51/165 trường, THCS là 13/96 trường và THPT là 01/31 trường.

 

Xã hội hóa giáo dục và đào tạo đạt được một số kết quả tích cực, việc huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí giáo dục ngày được mở rộng với nhiều hình thức khác nhau.

 

Quy mô, chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục phát triển. Đẩy nhanh phát triển các trung tâm dạy nghề, hiện nay toàn tỉnh có 09 trung tâm dạy nghề, 8 trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, 01 trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh và 08 cơ sở khác có dạy nghề; thành lập Trường Đại học Phú Yên (năm 2007) theo hướng đa ngành đa cấp, thành lập Trường Cao đẳng Nghề, cùng với các cơ sở đào tạo của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện học tập thuận lợi hơn cho nhân dân.

 

2.2- Phát triển khoa học và công nghệ: Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ được quan tâm hơn. Ngân sách tỉnh hàng năm chi cho hoạt động khoa học và công nghệ chiếm 1% tổng chi thường xuyên. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ có tiến bộ, chất lượng các đề tài, dự án được nâng lên. Trong khoa học xã hội và nhân văn, đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu về quản lý, lịch sử, địa chí, văn hoá… góp phần xác định luận cứ khoa học cho việc đề ra một số chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Trong khoa học tự nhiên và công nghệ, đã nghiên cứu triển khai một số mô hình, dự án, giải pháp kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ du lịch, bảo vệ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái... mang lại hiệu quả bước đầu.

 

Việc đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn và quy trình kỹ thuật phù hợp với chuẩn mực quốc tế, các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và phát triển tài sản trí tuệ bước đầu được chú trọng, góp phần giúp nhiều doanh nghiệp nâng uy tín thương hiệu, hạ giá thành, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.

 

2.3- Giải quyết việc làm: Đã giải quyết việc làm mới cho 126.370 lao động, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 25.274 lao động. Tỉ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 5,5% năm 2005 xuống còn 4,8% năm 2010; tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn đến năm 2010 đạt 85%.

 

Công tác đào tạo nghề cho người lao động được chú trọng. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 23,5% năm 2005 lên 38% năm 2010; trong đó, lao động qua đào tạo nghề tăng từ 14,7% năm 2005 lên 26% năm 2010. Tiếp tục mở các lớp đào tạo nghề cho nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật với các nghề phù hợp. Đã có một số doanh nghiệp bắt đầu chú trọng đến việc đặt hàng đào tạo lao động trước khi tuyển dụng... góp phần tăng cơ hội việc làm cho người lao động.

 

2.4- Công tác xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội: Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm, tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn năm 2006) giảm nhanh từ 19,3% năm 2005 ước còn 9% năm 2010, bình quân mỗi năm giảm hơn 2%. Giai đoạn 2006 - 2010, bằng nhiều nguồn vốn, đã hỗ trợ xây dựng gần 9 nghìn nhà ở cho người nghèo, với tổng số tiền hỗ trợ khoảng 55 tỉ đồng.

 

Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công và xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa ở các xã, phường, thôn, khu phố. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động từ các nhà hảo tâm, tổ chức, doanh nghiệp để xây dựng, sửa chữa nhà ở cho người có công, gia đình thương binh, liệt sĩ, đối tượng hộ nghèo.

 

Công tác an sinh xã hội được bảo đảm, đã triển khai kịp thời, đầy đủ các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, góp phần giảm thiểu ảnh hưởng và tác động tiêu cực do lạm phát và suy giảm kinh tế đến đời sống và sản xuất, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, bãi ngang ven biển.

 

2.5- Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số-kế hoạch hóa gia đình: Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở từng bước được củng cố và phát triển, có nhiều cơ sở y tế tư nhân tham gia chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Đến nay, có 97,3% số xã, phường, thị trấn có trạm y tế, 58% số trạm y tế xã có bác sĩ. Công tác đào tạo cán bộ và đầu tư cơ sở vật chất y tế được quan tâm; ước năm 2010 đạt 5,4 bác sĩ/1vạn dân, 19 giường bệnh/1vạn dân. Có 56 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế (50% số xã, phường, thị trấn).

 

Công tác khám chữa bệnh cho người nghèo được thực hiện khá tốt, người nghèo được hưởng chính sách chăm sóc sức khỏe với mức độ cao hơn, toàn diện hơn.

 

Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình được tăng cường; việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, lồng ghép công tác dân số với công tác kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em, chăm sóc sức khỏe, phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội được quan tâm… Tốc độ tăng quy mô dân số đã giảm dần và đến năm 2010 quy mô dân số tỉnh đạt 873 nghìn người, tốc độ tăng dân số tự nhiên bình quân giai đoạn 2006-2010 là 1,26%, mức giảm sinh bình quân hàng năm đạt 0,47‰. Công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục về các chủ trương, chính sách, luật pháp về dân số - kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản được tăng cường, góp phần nâng cao chất lượng dân số.

 

Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày càng được quan tâm. Tiếp tục triển khai thực hiện khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 27,8% năm 2005 xuống còn 16,5% năm 2010. 100% trẻ em trên 6 tuổi diện hộ nghèo được cấp thẻ BHYT, vận động được nhiều tổ chức hỗ trợ mổ tim bẩm sinh, mổ vá sứt môi hở hàm ếch, đục thủy tinh thể bẩm sinh, chỉnh hình phục hồi chức năng… Hiện nay, có 27 xã, phường triển khai mô hình phòng chống tai nạn thương tích trẻ em (năm 2005 là 1 xã), số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được bảo vệ đến năm 2010 là 2.600 cháu…

 

2.6- Văn hóa, thể dục thể thao, báo chí xuất bản:

 

- Về lĩnh vực văn hóa: Các hoạt động văn hóa, lễ hội phát triển đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung; hoạt động thư viện, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm được đẩy mạnh, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được chú trọng triển khai rộng khắp; đến năm 2010 ước có 85% số gia đình, 70% thôn, buôn, khu phố và 85% cơ quan được công nhận danh hiệu văn hóa. Việc xây dựng, củng cố các thiết chế văn hóa được chú trọng.

 

Việc bảo tồn, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống, văn hóa các dân tộc thiểu số được chú trọng; quan tâm chăm lo các hoạt động văn hóa lễ hội, trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Hiện trên địa bàn tỉnh có 17 di tích lịch sử, danh thắng cấp quốc gia. Lĩnh vực văn học - nghệ thuật có bước phát triển, đã nghiên cứu, sưu tầm và sáng tạo nhiều công trình, tác phẩm có giá trị… tạo nên môi trường văn hóa, văn học - nghệ thuật sinh động, phong phú, từng bước đáp ứng yêu cầu hưởng thụ văn hoá, văn học, nghệ thuật, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội…

 

- Thể dục thể thao: Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh; phát triển đa dạng các loại hình hoạt động thể dục thể thao, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia tập luyện và thi đấu. Một số môn thể thao thành tích cao như võ thuật đạt được một số huy chương cấp quốc gia và quốc tế. Một số câu lạc bộ thể dục thể thao tư nhân được thành lập và hoạt động hiệu quả. Chương trình phát triển thể dục thể thao ở cơ sở bước đầu đạt được một số kết quả rõ rệt, số người tập luyện thể thao thường xuyên năm 2010 khoảng 22,3% dân số.

 

- Chất lượng báo chí, phát thanh, truyền hình ngày được nâng lên; kịp thời tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân. Toàn tỉnh, có 109/112 xã (phường, thị trấn) có hệ thống truyền thanh (còn lại 3 đơn vị hành chính mới thành lập của thị xã Sông Cầu). Hệ thống phát thanh, truyền hình đã phủ sóng 100% các xã; bước đầu đã phát thanh tiếng dân tộc Ê Đê, Chăm H’roi đạt kết quả tốt. Đã đưa vào hoạt động báo Phú Yên điện tử; báo Phú Yên tăng từ 4 kỳ lên 7 kỳ/tuần, số lượng phát hành tăng 1,6 lần so với năm 2005.

 

2.7- Tài nguyên, môi trường: Công tác quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường được quan tâm hơn. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các văn bản chỉ đạo khác nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và nâng cao nhận thức của cộng đồng về các vấn đề môi trường. Công tác phòng chống bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ, khắc phục hậu quả thiên tai cơ bản được triển khai thực hiện tốt, kịp thời, giảm thiệt hại đến mức thấp nhất, không để xảy ra dịch bệnh sau bão, lũ, nhanh chóng khắc phục hậu quả ổn định sản xuất, đời sống nhân dân…

 

Thực hiện chính sách thu hút đầu tư gắn với bảo vệ môi trường; có chú trọng hơn công tác bảo vệ và phát triển rừng, hạn chế khai thác rừng tự nhiên, xử lý rác thải các khu công nghiệp, các làng nghề, khu dân cư… Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm và xử lý vi phạm cơ bản được thực hiện đúng quy trình.

 

3- Về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng- an ninh:

 

Quốc phòng - an ninh được tăng cường, chú trọng xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc; chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên cơ bản đảm bảo chất lượng và độ tin cậy. Tổ chức tốt công tác diễn tập vận hành cơ chế theo Nghị quyết 02-NQ/TW (nay là Nghị quyết 28-NQ/TW) của Bộ Chính trị ở các cấp. Công tác giáo dục quốc phòng - an ninh cho các đối tượng được tăng cường, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Giao quân hàng năm đạt chỉ tiêu số lượng và bảo đảm chất lượng.

 

Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. Công tác phối hợp bảo đảm an ninh trật tự vùng biển, đảo, cứu hộ, cứu nạn trên biển và phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai giữa các lực lượng đảm bảo chặt chẽ, có kết quả.

 

An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các “điểm nóng”, các vụ gây rối được giải quyết cơ bản, kịp thời, đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động sâu rộng, có hiệu quả, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết kịp thời nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ vững sự ổn định về chính trị - xã hội. Công tác đảm bảo an toàn giao thông có chuyển biến; đã kiềm chế, từng bước giảm tai nạn giao thông trên cả 3 mặt. Giữ vững địa bàn sạch về ma tuý trong nhiều năm liền.

 

Các lực lượng Công an, Quân sự, Biên phòng của tỉnh tiếp tục được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngày càng làm tốt vai trò tham mưu cấp ủy, chính quyền; phối hợp với các ngành, các lực lượng chủ động triển khai các biện pháp phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hoá hoạt động của tổ chức phản động Fulro, “Tin lành Đêga” ở địa bàn miền núi…

 

Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân sự, Biên phòng và hoạt động liên tịch giữa các lực lượng vũ trang với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội đạt kết quả tích cực.

 

4- Công tác nội chính:

 

Tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp trong tỉnh tiếp tục được đổi mới theo chủ trương cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được phối hợp chặt chẽ, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và tổ chức thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật được chú trọng.

 

Công tác hành chính tư pháp, hỗ trợ tư pháp, xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm hơn. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý có chuyển biến tích cực.

 

Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời, hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp.

 

5- Công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí:

 

Công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được đẩy mạnh. Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh và cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng bước đầu hoạt động có kết quả, đồng thời triển khai các giải pháp phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

 

Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng chặt chẽ, nghiêm minh, đúng quy định pháp luật, nhất là các vụ án tham nhũng dư luận quan tâm như vụ án Kè Bạch Đằng, Chỉnh trị cửa sông Đà Nông (giai đoạn I)…

 

Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt kết quả tích cực, nhất là trong mua sắm tài sản công, tổ chức hội họp, sử dụng điện, nước… Phần lớn các cơ quan, đơn vị đã xây dựng và thực hiện tốt quy chế chi tiêu nội bộ, bước đầu thực hiện có kết quả việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định số: 130/CP và 43/CP của Chính phủ.

 

6- Về xây dựng chính quyền vững mạnh:

 

Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn và từng bước đổi mới hoạt động theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động của HĐND các cấp ngày càng được cải tiến; chất lượng các kỳ họp, quyết định của HĐND được nâng cao. Việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND triển khai nghiêm túc. Hoạt động của UBND các cấp có chuyển biến, năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước ngày càng tốt hơn. Công tác cải cách hành chính, phân cấp quản lý được thực hiện đạt kết quả bước đầu.

 

Tổ chức bộ máy và cán bộ các sở, ban, ngành tỉnh, huyện, thị xã, thành phố được củng cố, kiện toàn theo Nghị định số: 13, 14/NĐ-CP của Chính phủ, giảm số cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh từ 24 xuống còn 19; số cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thị, thành phố từ 13 còn 12; tách chức năng quản lý nhà nước khỏi chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế được sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.

 

Chính quyền các cấp ngày càng đề cao trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức theo hướng trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân; duy trì và thực hiện tốt công tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri, giải quyết tốt các kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

 

Lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết 26 của Quốc hội (khoá XII) về thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, phường và bổ nhiệm các thành viên của UBND 7 huyện và 12 phường không tổ chức HĐND đúng theo thời gian quy định. Công tác quản lý, điều hành của UBND (nơi thí điểm không tổ chức HĐND) tập trung hơn, đạt kết quả bước đầu. Thực hiện điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập thị xã Sông Cầu và một số xã, phường, thị trấn trong tỉnh phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.

 

7- Về công tác Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể:

 

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường và phát huy; các cấp chính quyền đều cụ thể hoá và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài tạo điều kiện tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị địa phương.

 

Dân chủ trong sinh hoạt xã hội được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.

 

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục được củng cố, kiện toàn, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Các cuộc vận động xây dựng cơ sở, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện dân chủ ở cơ sở, xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội, nhân đạo từ thiện, phối hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân… được đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực, thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia. Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân tiếp tục được chú trọng, ngày càng đi vào nền nếp, tạo tác động tích cực đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương.

 

Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể các cấp ngày càng chủ động trong công tác tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo việc sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các chủ trương của cấp trên và của địa phương, cơ sở về công tác vận động quần chúng; phối hợp tham gia giải quyết có hiệu quả các “điểm nóng” về an ninh trật tự và những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân tại cơ sở.

 

Lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các hội, đoàn thể (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội Chữ thập đỏ, Liên minh HTX, Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam tỉnh…) theo nhiệm kỳ, đại hội các tổ chức tôn giáo, đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện và cấp tỉnh.

 

8- Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và kết quả bước đầu trong việc triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”:

 

8.1- Tình hình tư tưởng trong Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân cơ bản ổn định, đoàn kết, tin tưởng vào chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ.

 

Công tác tư tưởng tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng. Tổ chức tốt việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức, sự thống nhất chính trị, tư tưởng trong Đảng và toàn xã hội. Tập trung phổ biến, quán triệt Nghị quyết Đại hội X của Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, 6 chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và các chương trình hành động thực hiện các nghị quyết Trung ương, nghị quyết của cấp ủy các cấp, góp phần nâng cao nhận thức, sự thống nhất chính trị, tư tưởng trong Đảng và toàn xã hội.

 

8.2- Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ từ khâu học tập các chuyên đề, tổ chức các hội thi ở các ngành, đoàn thể, các lĩnh vực, đến việc đăng ký làm theo, xây dựng các mô hình điển hình tập thể, cá nhân làm theo gương Bác… tạo sức lan tỏa và tác động tích cực đến việc học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân. Chất lượng, hiệu quả Cuộc vận động ngày được nâng lên, ngày càng xuất hiện nhiều gương điển hình tiên tiến, với nhiều việc làm hay, cách làm tốt trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác…

 

Cuộc vận động, đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, ngăn ngừa tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ, giữ vững ổn định an ninh chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội.

 

8.3- Công tác tổ chức xây dựng Đảng được tăng cường. Các cấp ủy đều xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình gắn với phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới. Đảm bảo thực hiện đúng các quy định của Trung ương về phân công, phân cấp trong lãnh đạo và quản lý cán bộ; việc chuẩn hoá cán bộ về trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ được các cấp, các ngành quan tâm. Hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp giai đoạn 2010- 2015, 2015- 2020 và triển khai luân chuyển một số cán bộ diện quy hoạch. Nhìn chung, số cán bộ luân chuyển xác định được trách nhiệm, từng bước tiếp cận công việc, gắn bó với địa phương, đơn vị, phát huy năng lực, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và có bước trưởng thành hơn. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ tỉnh đến cơ sở được tăng cường về số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng.

 

Trong nhiệm kỳ, đã bầu bổ sung 1 Phó Bí thư Tỉnh ủy, 1 Phó Bí thư Tỉnh ủy được luân chuyển về; 5 ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, 6 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; bầu bổ sung Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh nhiệm kỳ (2004- 2011), phân công, điều động, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 84 cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý. Kiện toàn tổ chức bộ máy một số cơ quan tỉnh; thành lập Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh, Đảng đoàn Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật tỉnh.

 

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được đẩy mạnh, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công tác.

 

Công tác nhận xét, đánh giá phân loại cán bộ hàng năm được thực hiện đúng quy trình, chặt chẽ. Số cán bộ được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ, có chiều hướng và khả năng phát triển tốt hơn tăng so với đầu nhiệm kỳ.

 

8.4- Cấp ủy các cấp tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đảm bảo chặt chẽ theo tinh thần Nghị quyết TW5 (khoá X); tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy và quy chế phối hợp giữa các đơn vị đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ đạo thực hiện tốt việc củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp (theo Nghị định 13, 14/NQ-CP của Chính phủ, các Nghị quyết của Quốc hội), chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân tại 7 huyện và 12 phường, thí điểm mô hình đồng chí bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân ở 2 huyện: Phú Hòa, Tây Hòa và 4 xã: Hòa Vinh (huyện Đông Hòa), Hòa Hội (huyện Phú Hòa), Xuân Bình (thị xã Sông Cầu), Xuân Sơn Nam (huyện Đồng Xuân) và 3 phường: Phường 2, 7, Phú Lâm. Thực hiện có kết quả việc thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cơ sở bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư tại 13 đảng bộ cơ sở và đại hội đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ tại 2 đảng bộ. Việc phân công các đồng chí ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy phụ trách địa bàn, Tỉnh ủy viên phụ trách các xã đặc biệt khó khăn; cấp ủy viên huyện, thị, thành phố phụ trách các thôn, buôn, khu phố đã góp phần nâng cao trách nhiệm của cấp ủy viên đối với địa phương, cơ sở, giúp cấp ủy nắm chắc tình hình, kịp thời chỉ đạo, giải quyết các vụ việc phức tạp xảy ra ở cơ sở.

 

8.5- Bước đầu thực hiện có kết quả Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”; nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ và đảng viên về vai trò, vị trí quan trọng của tổ chức cơ sở đảng được nâng lên. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình. Số tổ chức cơ sở đảng được xếp loại trong sạch, vững mạnh đúng thực chất hơn; số tổ chức cơ sở đảng diện yếu kém giảm từ 1,6% năm 2006 xuống còn 0,69% năm 2009. Việc kết nạp đảng viên mới được chú trọng về chất lượng, số lượng và cơ cấu; đảng viên mới trong độ tuổi thanh niên, là nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng nhanh, góp phần trẻ hóa, nâng cao tỷ lệ nữ, dân tộc… trong cơ cấu đội ngũ đảng viên. Đến tháng 6 năm 2010, 100% thôn, buôn, khu phố (600/600) đã lập được chi bộ và 80,7% trường học, trung tâm hướng nghiệp dạy nghề (357/442) trong tỉnh có chi bộ đảng hoạt động.

 

8.6- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, góp phần bảo vệ Đảng trong sạch về chính trị, tư tưởng và tổ chức; kịp thời kết luận những trường hợp có vấn đề về lịch sử chính trị phục vụ công tác cán bộ, kết nạp đảng… trong tình hình hiện nay.

 

Các chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý và đối tượng trong diện hưởng chế độ được thực hiện chu đáo, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng và kịp thời động viên cán bộ, đảng viên. 

 

8.7- Công tác dân vận của Đảng có tiến bộ hơn, tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức, hoạt động hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xây dựng cơ sở, xoá đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, phòng chống tệ nạn xã hội… được đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực.

 

8.8- Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, đảm bảo theo chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm; gắn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng hệ thống chính trị, góp phần thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Chỉ đạo xử lý cơ bản các vụ việc nổi cộm còn tồn đọng ngay từ đầu nhiệm kỳ và thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của cấp ủy hàng năm. Nhờ đó đã góp phần giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và ngăn ngừa vi phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

 

II/ KHUYẾT ĐIỂM, YẾU KÉM:

 

1- Nền kinh tế có phát triển khá, nhưng quy mô nền kinh tế nhỏ, GDP bình quân đầu người còn thấp hơn mức bình quân cả nước. Có 4/12 chỉ tiêu chủ yếu không đạt so với Nghị quyết đề ra; có chỉ tiêu tuy đạt nhưng chưa đảm bảo tính vững chắc.

 

2- Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm. Ngành công nghiệp quy mô sản xuất còn nhỏ, trình độ công nghệ nhìn chung thấp, chưa có bước phát triển mạnh để tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp-xây dựng trong cơ cấu GDP theo Nghị quyết đề ra.

 

Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và vệ sinh an toàn thực phẩm đang là những vấn đề bức xúc; việc quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng còn nhiều yếu kém, bất cập, một số dự án trồng rừng kém hiệu quả; công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn; công nghiệp chế biến thủy sản phát triển còn kém; việc tổ chức ứng dụng công nghệ, tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, nhất là về giống, cơ giới hoá các khâu sản xuất, công nghệ sau thu hoạch.

 

Dịch vụ tuy có mức tăng trưởng ổn định nhưng một số lĩnh vực phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, nhất là chưa phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế về điều kiện tự nhiên gắn với phát triển kinh tế biển. Các sản phẩm dịch vụ chưa phong phú, chất lượng một số dịch vụ còn thấp so với một số tỉnh lân cận. Thực hiện Chương trình nước sạch nông thôn ở nhiều nơi chưa tốt.

 

Chưa có sự gắn kết tốt giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.

 

3- Kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội được đầu tư tăng nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển còn thấp; nhiều công trình, dự án còn kéo dài thời gian hoàn thành, công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư còn nhiều hạn chế. Vốn ngân sách bố trí đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, giáo dục, y tế thời gian qua được chú ý tập trung hơn nhưng kết quả thực hiện quá chậm. Nhiều dự án lớn đăng ký đầu tư triển khai chậm, có dự án xin rút hoặc bị thu hồi.

 

4- Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện không đáng kể; tạo việc làm, công tác xóa đói giảm nghèo còn có mặt hạn chế; tình trạng tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới ở một số vùng khó khăn có chiều hướng gia tăng. Tỉ lệ bình quân hộ nghèo ở 3 huyện miền núi chiếm 24,14%, cao gấp 2,1 lần mức bình quân chung của tỉnh.

 

Chất lượng giáo dục giữa các vùng, miền còn có sự chênh lệch, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; việc gắn kết công tác đào tạo nghề với sử dụng lao động còn thấp. Tình trạng vừa thiếu vừa thừa lao động vẫn chưa được khắc phục, nhất là thiếu lao động có trình độ tay nghề cao. Trình độ dân trí và nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế; chất lượng phổ cập giáo dục chưa bền vững.

 

Khoa học và công nghệ phát triển chậm, vẫn ở mức thấp so với nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế-xã hội còn nhiều hạn chế, chưa phát huy vị trí, vai trò là động lực trong phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

 

Chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân còn thấp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tuyến xã, huyện tuy được tăng cường nhưng vẫn chưa giải quyết được tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến tỉnh; chất lượng khám chữa bệnh tuy có tiến bộ nhưng thái độ phục vụ người bệnh của một bộ phận y, bác sĩ chưa tốt.

 

Thiết chế văn hóa ở cơ sở còn thiếu thốn, nhưng chưa được quan tâm. Việc gìn giữ bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần nhân dân vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chưa được chú trọng đúng mức.

 

5- Việc quản lý đất đai, nhất là đất lúa 2 vụ, tài nguyên, khoáng sản và bảo vệ môi trường chưa chặt chẽ. Tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra ở một số cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, làng nghề, bệnh viện, khu dân cư; việc xử lý chất thải sinh hoạt ở thành phố, thị xã, nông thôn còn chưa tốt; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn thấp. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường chưa được hợp lý, thiếu bền vững.

 

6- Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế- xã hội với đảm bảo an ninh quốc phòng có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Công tác tổ chức nắm tình hình, dự báo, phát hiện, xử lý mâu thuẫn xã hội có lúc chưa kịp thời, thiếu hiệu quả, để phát sinh “điểm nóng”, gây phức tạp tình hình an ninh trật tự. Chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang còn có mặt hạn chế.

 

7- Cải cách tư pháp có mặt chưa tập trung, thiếu đồng bộ; công tác điều tra, truy tố, xét xử có mặt còn hạn chế, một số nơi tình trạng án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn cao; công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có lúc, có việc chưa kịp thời. Việc thi hành án dân sự còn hạn chế, có trường hợp còn sai sót.

 

8- Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn xảy ra nhưng giải quyết chưa triệt để; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa cao; ý thức chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở một số ít cán bộ, đảng viên chưa cao; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương ở một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm.

 

9- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền trên một số lĩnh vực còn lúng túng, không kịp thời, một số vụ việc xử lý thiếu chặt chẽ. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan, đơn vị còn bất hợp lý, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, hạn chế đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị. Sau kiện toàn tổ chức bộ máy (theo Nghị định 13, 14 của Chính phủ), số lượng cán bộ, công chức trong các ngành chưa giảm. Năng lực, phẩm chất một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu kém, một số cán bộ, trong đó có cán bộ là cấp ủy viên chưa hoàn thành nhiệm vụ, sai phạm bị xử lý kỷ luật; có đơn vị xảy ra mất đoàn kết nội bộ nhưng chưa được giải quyết kịp thời. 

 

Công tác tổ chức thi tuyển công chức và việc thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao chưa thực hiện tốt, chưa đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời.

 

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có tiến bộ, nhưng còn chậm; hoạt động của hệ thống chính trị ở một số địa phương, cơ sở còn yếu; vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân có lúc chưa được phát huy đúng mức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở cơ sở được chú trọng, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhiều trường hợp chưa gắn với quy hoạch, bố trí, sắp xếp cán bộ; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có nơi chưa tốt; tổ chức triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có mặt còn hạn chế, chuyển biến của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong “làm theo” có nơi chưa rõ nét.

 

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế; chất lượng sinh hoạt một số chi bộ chưa đạt yêu cầu, tự phê bình và phê bình còn yếu, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ. Việc xây dựng và phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, lúng túng trong triển khai; vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong một số doanh nghiệp chưa được phát huy.

 

III/ NGUYÊN NHÂN:

 

1- Nguyên nhân của những thành tựu:

 

Nhiều chủ trương, chính sách đổi mới của Trung ương kịp thời, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Sự lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương và Chính phủ; sự hợp tác, tương trợ của một số địa phương bạn trong việc giải quyết các vấn đề lớn mang tính liên vùng và các yêu cầu cấp bách phát sinh trong quá trình thực hiện Nghị quyết.

 

Có sự nỗ lực lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy và cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh. Việc xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước và địa phương.

 

Tinh thần đoàn kết nhất trí, ý chí tự lực, tự cường và nỗ lực cao của toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong tỉnh; đóng góp của các thành phần kinh tế trong tỉnh được phát huy tốt hơn.

 

Công tác vận động quần chúng của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể có tác dụng tốt. Ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân trong tỉnh dần được nâng lên.

 

2- Nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm, yếu kém:

 

2.1- Nguyên nhân khách quan:

 

Tình hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường, ngày càng phức tạp và khó lường.

 

Tình hình lạm phát, đặc biệt là những biến động và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

 

Tính thiếu đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

 

2.2- Nguyên nhân chủ quan:

 

Việc tổ chức nghiên cứu quán triệt, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở một số nơi, có lúc còn chưa nghiêm.

 

Công tác lập quy hoạch, quản lý nhà nước về quy hoạch trên một số ngành, lĩnh vực chưa chặt chẽ, còn có mặt bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

 

Chậm tổng kết thực tiễn và rút kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành. Công tác nghiên cứu, dự báo tình hình trong một số lĩnh vực chưa tốt, tầm nhìn trung và dài hạn trong phát triển còn hạn chế. Công tác điều hành có lúc, có nơi còn chưa tập trung, thiếu đồng bộ, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Việc chấp hành pháp luật của một bộ phận công chức chưa nghiêm.  

 

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở một số ngành, địa phương có mặt chưa tốt. Năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nhưng chậm thay thế.

 

Những khuyết điểm, yếu kém chủ quan nêu trên thuộc trách nhiệm của Tỉnh uỷ, mà trước hết thuộc Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Thường trực Tỉnh uỷ.

 

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT:

 

Năm năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV tuy gặp nhiều khó khăn thách thức lớn, nhưng tỉnh ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Có 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch, 3 chỉ tiêu đạt từ 92,3% - 94,6%, có 1 chỉ tiêu đạt thấp. Nền kinh tế tỉnh giữ được mức tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực; công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đạt được bước tiến đáng kể; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư… Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ổn định, nhiều mặt được cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có tiến bộ, nội bộ đoàn kết nhất trí; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt kết quả bước đầu.

 

Đến nay, tỉnh ta đã đạt được mục tiêu tổng quát do Đại hội đề ra là cơ bản thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo. Vị thế của Phú Yên được nâng lên, tạo ra thế và lực mới cho công cuộc phát triển tỉnh nhà trong những năm đến.

 

Tuy nhiên, do xuất phát điểm nền kinh tế thấp nên mặc dù đạt mức tăng trưởng GDP cao trên 10%/năm liên tục trong nhiều năm liền, nhưng quy mô nền kinh tế tỉnh vẫn còn nhỏ, GDP bình quân đầu người thấp hơn mức bình quân của cả nước. Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra chưa đạt. Trong kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vẫn còn nhiều mặt khuyết điểm, yếu kém. Đây là những nội dung cần phải chú trọng để tập trung khắc phục trong nhiệm kỳ đến.

 

IV/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM: 

 

Qua thực tiễn năm năm lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau:

 

- Một là, xác định đúng vấn đề trọng tâm để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện tốt các chương trình hành động thực hiện nghị quyết Đại hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong việc ổn định và phát triển tỉnh nhà. Điều đó dựa trên cơ sở nắm vững các quan điểm của Đảng và tình hình thực tế của địa phương. Ngay sau Đại hội, Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chọn đúng các trọng tâm để xây dựng 6 chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV phù hợp với sự chỉ đạo của Trung ương xuyên suốt nhiệm kỳ qua.

 

- Hai là, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phải có quyết tâm lớn; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhất là những vấn đề mới vì lợi ích chung, thúc đẩy cải cách hành chính mạnh mẽ, từ đó vừa tạo ra sức mạnh khơi dậy được nội lực ở địa phương vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của Trung ương và thu hút các nguồn đầu tư từ bên ngoài vào tỉnh. Trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội phải chú trọng đến việc bổ sung hoàn thiện các quy hoạch phù hợp với tình hình mới, vừa biết nắm bắt và phát huy lợi thế so sánh của địa phương để thúc đẩy đầu tư phát triển tạo đột phá đi lên, vừa biết chăm lo phát triển nông nghiệp, nông thôn, tăng nguồn lực đầu tư và hỗ trợ an sinh xã hội các vùng khó khăn để ổn định xã hội, hạn chế chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền trong tỉnh.

 

- Ba là, trong xây dựng Đảng phải luôn chăm lo xây dựng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt là bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Trước hết phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng thông qua việc xây dựng và thực hiện nghiêm túc các qui chế làm việc trong cấp ủy, trong ban thường vụ và thường trực cấp ủy, qua đó vừa phát huy được trí tuệ của tập thể, nâng cao được vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Đồng thời phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; cấp ủy không bao biện, làm thay, không can thiệp sâu vào chức năng, nhiệm vụ và hoạt động tác nghiệp của các tổ chức, nhưng không buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Việc lãnh đạo nhất thiết phải đi liền với việc kiểm tra, giám sát nhằm phòng ngừa và kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc của tổ chức và cá nhân, nhất là ở những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, đồng thời nhằm phát hiện, bảo vệ và phát huy các nhân tố tích cực.

 

- Bốn là, quan tâm chăm lo công tác xây dựng cơ sở, chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nhất là cơ sở xã, phường, thị trấn ngày càng vững mạnh, tạo chuyển biến thực sự trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời phải hết sức chú trọng công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị; kịp thời thay thế những cán bộ lãnh đạo năng lực yếu, sa sút về phẩm chất, không hoàn thành nhiệm vụ; quan tâm bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ trẻ có năng lực lãnh đạo và có phẩm chất tốt đáp ứng yêu cầu phát triển mới; thực hiện tốt các chế độ, chính sách tương xứng với quá trình cống hiến của mỗi người.

 

- Năm là, phải luôn nắm vững quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không ngừng phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong việc tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc  và các đoàn thể vững mạnh. Thực tế cho thấy năm năm qua, nhờ làm tốt công tác vận động quần chúng, huy động được sức mạnh vật chất và tinh thần của quần chúng nên đã huy động được các nguồn lực trong nhân dân, trong các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm hộ nghèo…; giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn.

 

PHẦN THỨ HAI: MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

 

Những thành tựu to lớn từ ngày tái lập tỉnh đến nay và kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị là tiền đề quan trọng tạo đà phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Vị thế của tỉnh dần được xác lập, nhìn tổng thể tỉnh có nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, nội bộ nền kinh tế tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém; kết cấu hạ tầng tuy được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Các yếu tố đột phá được xác định trong giai đoạn trước chậm được hình thành, nên chưa thật sự tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển; văn hoá- xã hội còn nhiều mặt hạn chế; thiếu nguồn nhân lực có chất lượng; thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường, tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn… Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với thời cơ và thuận lợi là những khó khăn, thách thức, nhất là cạnh tranh về kinh tế - thương mại ngày càng gay gắt; tình hình biển Đông diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá ta về nhiều mặt… Đó là những vấn đề cần chú ý trong quá trình triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015.

 

I/ MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TỔNG QUÁT:

 

Năm năm tới (2011-2015) có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020 của tỉnh và góp phần thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2011-2020) theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

 

Mục tiêu và phương hướng tổng quát của Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta trong 5 năm tới (2011- 2015) là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn đảng bộ; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa Phú Yên phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đạt mức bình quân chung của cả nước, tạo đà để đến năm 2020, Phú Yên cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.

 

II/ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU:

 

1- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm trong giai đoạn 2011-2015 tăng 13-13,5%/năm, trong đó giá trị gia tăng ngành nông- lâm- thủy sản tăng 3,5-4%; giá trị gia tăng ngành công nghiệp-xây dựng tăng 16-17%; giá trị gia tăng ngành dịch vụ tăng 13,5-14%.

 

Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2015: ngành nông-lâm-thủy sản chiếm 20%; công nghiệp-xây dựng 40%; dịch vụ 40%.

 

2- GDP bình quân đầu người đến năm 2015 đạt khoảng 36-37 triệu đồng.

 

3- Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân 5 năm đạt 23-24%/năm, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 350 triệu USD.

 

4- Tổng vốn huy động cho đầu tư phát triển trong 5 năm giai đoạn 2011-2015 khoảng hơn 55.000 tỉ đồng.

 

5- Thu ngân sách đến năm 2015: 2.500 tỉ đồng, tăng bình quân giai đoạn 2010- 2015 là 17,2%/năm.

 

6- Tỉ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2015 đạt 55% tổng số lao động toàn xã hội, trong đó đào tạo nghề đạt 41%.

 

7- Giải quyết việc làm giai đoạn 2011- 2015: 117.500 lao động (bình quân mỗi năm 23.500 lao động); tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giai đoạn 2011-2015 dưới 4,7%; nâng mức thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đến năm 2015 đạt 87-88%.

 

8- Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% thanh niên trong độ tuổi có trình độ học vấn trung học phổ thông.

 

9- Phấn đấu đến năm 2015, đạt 92% số gia đình được công nhận gia đình văn hóa; 80% số thôn, buôn, khu phố văn hóa và 95% số cơ quan, đơn vị văn hóa.

 

10- Tốc độ phát triển dân số tự nhiên đến năm 2015 khoảng 1,1%. Duy trì mức giảm sinh khoảng 0,3‰ mỗi năm; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng năm 2015 dưới 15%.

 

11- Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (áp dụng cho giai đoạn 2011-2015) bình quân giảm 2%/năm.

 

12- Phấn đấu đến năm 2015, xây dựng ít nhất 20% số xã đạt theo tiêu chí nông thôn mới.

 

13- Về môi trường đến năm 2015, phấn đấu:

 

- Đưa tỉ lệ che phủ rừng lên 39%.

 

- Tỉ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt khoảng 90%; cơ bản dân cư thành thị được cung cấp nước sạch.

 

- Giải quyết cơ bản chất thải ở đô thị, khu công nghiệp, giải quyết 100% chất thải ở các cơ sở y tế.

 

14- Tỉ lệ phát triển đảng viên mới tăng bình quân 6-7% /năm.

 

15- Giữ vững quốc phòng-an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu giao. Đến năm 2015, trên 90% xã, phường, thị trấn đạt vững mạnh về quốc phòng - an ninh.

 

III/ CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU:

 

1- Về Kinh tế:

 

1.1- Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng: phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh. Đẩy mạnh đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ các cơ sở công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp. Chú trọng thu hút đầu tư hình thành các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn. Phấn đấu phát triển công nghiệp xây dựng trở thành ngành kinh tế mạnh giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung xây dựng hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như: công nghiệp chế biến nông-lâm-thủy sản, lọc - hóa dầu, hoá chất, công nghiệp năng lượng, công nghiệp cơ khí, ngành công nghiệp phụ trợ... Đồng thời phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng, nhất là ở nông thôn; đẩy nhanh việc khôi phục và phát triển một số làng nghề truyền thống, làng nghề mới gắn với việc du nhập, nhân rộng nghề phù hợp với điều kiện địa phương nhằm thu hút lực lượng lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

 

Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, trong đó chú trọng đến mạng lưới giao thông, hệ thống cấp, thoát nước và xử lý chất thải, nước thải ở các đô thị, các khu công nghiệp. Đầu tư hoàn chỉnh và khai thác có hiệu quả các khu công nghiệp của tỉnh; tiếp tục phát triển mạng lưới cụm công nghiệp ở khu vực nông thôn… đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

 

Phát triển nhà ở đô thị, nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại đồng bộ với hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương và quy hoạch được duyệt, đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở của người dân, tạo động lực cho phát triển đô thị và nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

 

Định hướng phát triển:

 

- Chế biến nông lâm thuỷ sản: Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản gắn với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu. Hỗ trợ, tạo điều kiện để các cơ sở chế biến nông lâm thuỷ sản hiện có phát huy hết công suất, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường xúc tiến, thu hút đầu tư nhà máy chế biến thuỷ sản sử dụng công nghệ hiện đại, hướng mạnh đến xuất khẩu. Khuyến khích các hộ gia đình đầu tư phát triển nghề chế biến hải sản khô, tẩm sấy, chế biến nước mắm... trên cơ sở nâng cao chất lượng, cải tiến kiểu dáng bao bì, xây dựng và đăng ký thương hiệu sản phẩm hàng hoá địa phương.

 

Có cơ chế và chế tài phù hợp để các doanh nghiệp mía đường, tinh bột sắn, chế biến hạt điều, tăng cường  đầu tư phát triển vùng nguyên liệu đã được quy hoạch, ký hợp đồng tiêu thụ ổn định cùng có lợi, hỗ trợ nông dân cải tạo giống, thâm canh và phát triển cơ sở hạ tầng. Tạo điều kiện để phát triển sản xuất các sản phẩm từ bã mía, vỏ hạt điều, chế biến sản phẩm sau đường, sau tinh bột để tăng giá trị xuất khẩu, tăng hiệu quả sản xuất. Khuyến khích đầu tư nhà máy chế biến các sản phẩm từ dừa gắn với cải tạo và mở rộng phát triển diện tích dừa; chế biến mủ cao su gắn với vùng cao su đã được quy hoạch.

 

Thu hút các dự án đầu tư nhà máy chế biến thịt gia súc, gia cầm gắn với hình thành vùng sản xuất tập trung, sử dụng giống chất lượng cao và phương thức nuôi công nghiệp.

 

- Công nghiệp lọc- hóa dầu, hóa chất, phân bón: Tạo điều kiện khởi công và đưa Nhà máy lọc dầu Vũng Rô vào hoạt động khoảng cuối nhiệm kỳ 2010-2015; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư để triển khai Khu công nghiệp Hoá dầu Hòa Tâm theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

 

Khuyến khích các nhà máy sản xuất dược phẩm, phân bón hiện có trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quốc tế; đầu tư mới các nhà máy sản xuất phân vi sinh và các chế phẩm sinh học với quy mô phù hợp.

 

- Công nghiệp đóng tàu và cơ khí: Tạo điều kiện để Nhà máy đóng tàu Phú Yên, Nhà máy lắp ráp ô tô JRD phát triển và xem xét cho phép đầu tư một số cơ sở đóng tàu thuyền, cơ khí phù hợp với quy hoạch chung.

 

Hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất ngư cụ, cơ khí sửa chữa tàu thuyền tại các huyện ven biển, các cơ sở cơ khí chế tạo nhỏ, các cơ sở dịch vụ cơ khí phục vụ nhu cầu sửa chữa nông cụ, thiết bị ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

 

- Sản xuất đồ uống và nước giải khát: Phối hợp với đơn vị chủ quản để sớm nâng công suất nhà máy bia Sài Gòn – Phú Yên, tạo điều kiện để các Nhà máy bia trong tỉnh phát huy hết năng lực hiện có; các cơ sở chế biến nước đóng chai hiện có đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, cải thiện chất lượng, hướng ra thị trường ngoài tỉnh. Thu hút đầu tư nhà máy sản xuất nước giải khát từ hoa quả và cây dược liệu có công nghệ tiên tiến, hiện đại.

 

- Dệt – may: Tạo điều kiện để các cơ sở may công nghiệp hiện có đầu tư mở rộng dây chuyền, hiện đại hoá thiết bị. Hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường đầu tư khâu thiết kế, chuyển dần từ may gia công sang sản xuất các sản phẩm có thương hiệu, từng bước phát triển ngành công nghiệp may mặc của tỉnh.

 

- Chế biến khoáng sản và sản xuất VLXD: Hạn chế tối đa việc khai thác và chế biến thô khoáng sản để xuất khẩu. Đầu tư mở rộng và đa dạng hoá sản phẩm của các nhà máy sản xuất đá ốp lát, đá mỹ nghệ. Sắp xếp lại nghề sản xuất gạch ngói thủ công, đổi mới công nghệ nung, hạn chế và loại bỏ dần các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Hình thành các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gạch không nung, gạch block, gạch tuynen, cấu kiện bê tông đúc sẵn; sản xuất gạch ceramit chất lượng cao. Thu hút đầu tư nhà máy sản xuất bột trợ lọc có công nghệ tiên tiến, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

 

- Công nghiệp năng lượng- cấp nước: Khai thác có hiệu quả các nhà máy thuỷ điện hiện có; đẩy nhanh tiến độ đầu tư các nhà máy thủy điện nhỏ đã có chủ trương thực hiện. Thu hút đầu tư nhà máy phong điện và các dạng năng lượng khác.

 

Hình thành Nhà máy nước Khu kinh tế Nam Phú Yên với công suất thích hợp phục vụ cho khu kinh tế Nam Phú Yên và các vùng phụ cận.

 

- Phát triển công nghiệp - TTCN nông thôn: Phát triển các ngành truyền thống, gắn phát triển với xây dựng các HTX ngành nghề, chế biến nông- lâm- thủy sản, mộc dân dụng, gốm sứ, sửa chữa máy móc, các loại vật liệu và cấu kiện xây dựng nông thôn. Phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre lá, dừa… Hỗ trợ và khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao giá trị sản phẩm, hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, tham gia xuất khẩu.

 

Tập trung xây dựng, phát triển các làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống, làng nghề có tiềm năng gắn với phát triển du lịch; du nhập và nhân rộng một số nghề tiểu thủ công nghiệp mới phù hợp với điều kiện địa phương, nhằm góp phần khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu tại chỗ và giải quyết được nhiều lao động, nhất là lao động ở khu vực nông thôn.

 

- Phát triển khu kinh tế, khu, cụm công nghiệp: Hoàn thành kết cấu hạ tầng giai đoạn 1 Khu kinh tế Nam Phú Yên để phục vụ cho các dự án đang triển khai trong khu kinh tế; hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các phân khu chức năng để làm cơ sở thu hút các dự án đầu tư.

 

Tiếp tục hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Hòa Hiệp, An Phú, Đông Bắc Sông Cầu và các khu dân cư phục vụ khu công nghiệp.

 

Tiếp tục hỗ trợ đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp trên địa bàn ở những địa phương có điều kiện, có khả năng thu hút các dự án có hiệu quả.

 

1.2. Phát triển dịch vụ: Thu hút phát triển một số loại dịch vụ chất lượng cao. Đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là du lịch biển cùng với phát triển dịch vụ cảng biển, phát huy lợi thế địa lý là cửa ngõ hướng ra biển Đông.

 

Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt trên 23-25%/năm.

 

Định hướng phát triển:

 

- Về thương mại: Xây dựng và phát triển các hình thức bán hàng văn minh, hiện đại; chú trọng phát triển thị trường nông thôn, miền núi; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại theo quy hoạch. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh Chợ trung tâm thành phố Tuy Hoà giai đoạn 2 và một số chợ đầu mối. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, xúc tiến thương mại, thực hiện tốt Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, nhất là sản phẩm có chất lượng sản xuất tại Phú Yên; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm hàng có lợi thế của tỉnh; hạn chế tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô, tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng tinh chế.

 

- Về du lịch: Tập trung đầu tư các tuyến, điểm du lịch, nhất là các di tích, danh thắng quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các dự án du lịch có quy mô lớn; tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch gắn với các hoạt động văn hoá, thể thao; chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch biển, đảo, đầm, vịnh, rừng núi và một số cơ sở văn hóa phục vụ phát triển du lịch; tăng cường liên kết với các tỉnh, thành phố và các đối tác ngoài nước để phát triển lữ hành quốc tế. Khuyến khích sản xuất hàng lưu niệm phục vụ du lịch. Tổ chức thành công “Năm Du lịch Quốc gia duyên hải Nam Trung bộ - Phú Yên 2011” nhân dịp kỷ niệm 400 năm Phú Yên. Đến năm 2015, khách du lịch đến Phú Yên đạt khoảng 800.000 lượt khách, tăng bình quân 20%/năm, trong đó khách quốc tế chiếm 10-12%; năng lực phòng khách sạn tăng thêm 1.500-2.000 phòng.

 

- Về dịch vụ vận tải: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển các thương hiệu mạnh, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao và tạo tiền đề thuận lợi  phát triển kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng bình quân năng lực vận chuyển hàng hóa đạt khoảng 6-8%/năm; năng lực vận chuyển hành khách tăng bình quân 8-10%/năm. Năng lực hàng hoá qua Cảng Vũng Rô đạt 1,2 triệu tấn vào năm 2015 và hình thành các dịch vụ cảng. Phối hợp tăng tần suất bay tuyến Hà Nội - Tuy Hòa - Hà Nội và tuyến bay TP Hồ Chí Minh - Tuy Hòa - TP Hồ Chí Minh.

 

- Dịch vụ bưu chính viễn thông: Đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá dịch vụ và chăm sóc khách hàng. Phát triển mạnh mạng bưu chính viễn thông công cộng, các mạng chuyên dùng với kỹ thuật hiện đại, tiến tới thực hiện mạng số đa dịch vụ, mạng thông tin cá nhân, băng rộng, internet tốc độ cao, điện thoại internet... Hoàn thành cơ bản việc đưa internet vào các trường học; đến năm 2015 tỷ lệ người dân sử dụng internet đạt 55 người/100 dân.

 

- Dịch vụ tài chính, ngân hàng: Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng trên cơ sở đổi mới và hiện đại hoá công nghệ, xây dựng đội ngũ cán bộ  đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển.

 

Dư nợ tín dụng tăng bình quân 25%/năm; cơ cấu tín dụng theo hướng ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất, các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh, lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn- nông dân và các đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng theo hướng hiện đại. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới hoạt động, đặc biệt là khu vực nông thôn; từng bước xây dựng nông thôn mới.

 

1.3. Phát triển nông nghiệp, nông thôn: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững, chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, sản phẩm sạch đáp ứng nhu cầu đa dạng và phục vụ cho phát triển dịch vụ, công nghiệp và xuất khẩu gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ cấu hợp lý; gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến và phát triển dịch vụ ở nông thôn.

 

Phát triển thủy sản hợp lý, bền vững, hiệu quả với cơ cấu sản phẩm đa dạng; hình thành một số sản phẩm chủ lực có chất lượng, giá trị cao. Từng bước xây dựng tỉnh ta trở thành một trong những trung tâm sản xuất, dịch vụ, chế biến, xuất khẩu thủy sản của khu vực và cả nước.

 

Chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, phát triển làng nghề ở nông thôn, góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống nông dân. Tiếp tục triển khai Chương trình giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng xã hội, giảm dần chênh lệch về hưởng thụ các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội… giữa nông thôn và thành thị.

 

Định hướng phát triển:

 

- Tiếp tục ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Đẩy mạnh thâm canh cây trồng, vật nuôi; ổn định vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.

 

Đổi mới và xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất có hiệu quả theo hướng phát triển gia trại, trang trại có quy mô phù hợp với điều kiện của từng vùng. Ưu tiên đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ sinh học để chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và các công nghệ mới trong quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng lực tưới tiêu chủ động để tăng diện tích lúa 2 vụ, diện tích mía, bắp, rau quả thâm canh; củng cố, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thoát lũ. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi có hiệu quả, nâng hiệu suất sử dụng các công trình thủy lợi, đảm bảo việc thoát lũ và điều tiết nước cho sản xuất nông nghiệp.

 

Thực hiện tốt chiến lược đảm bảo an ninh lương thực, ổn định cơ bản quỹ đất trồng lúa hai vụ nhằm bảo đảm sản lượng lúa giai đoạn 2011-2015 khoảng 32 vạn tấn/năm.

 

Mở rộng diện tích các loại cây ăn quả có lợi thế; phát triển vùng rau tập trung, chất lượng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm. Đầu tư hình thành khu sản xuất nông nghiệp áp dụng công nghệ cao Hoà Quang và hình thành một số cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao khác.

 

Phát triển và duy trì sản xuất ổn định một số cây trồng chủ yếu sau: Cây mía khoảng 18.000ha, Cây sắn khoảng 9.000ha, Cây cao su khoảng 7.000ha tại một số địa phương theo quy hoạch.

 

Phát triển chăn nuôi theo hướng khuyến khích phương thức nuôi công nghiệp và bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng; tập trung cải tạo và nâng cao chất lượng giống bò, heo; áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế. Đến năm 2015, đàn bò 245.000 con, với 65% bò lai; đàn heo 170.000 con, với 90% heo thịt hướng nạc.

 

- Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 loại rừng (rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng). Thu hút nhiều nguồn đầu tư để phát triển rừng có hiệu quả, gắn phát triển rừng kinh tế  với công nghiệp chế biến, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và từng bước làm giàu từ rừng. Nghiên cứu và xây dựng mô hình trồng rừng sản xuất bền vững gắn với bảo vệ môi trường và đảm bảo hài hoà lợi ích giữa người dân ở khu vực có rừng và doanh nghiệp trồng rừng; đổi mới quy trình trồng rừng theo hướng tránh gây hại cho môi trường, nghiêm cấm việc lợi dụng trồng rừng để khai thác gỗ. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hóa công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản; tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trồng rừng kinh tế để kết thúc sớm giai đoạn trồng rừng, chuyển sang giai đoạn chăm sóc, khép tán nhằm nâng cao độ che phủ rừng lên 39% vào năm 2015, góp phần chống xói mòn và hạn chế lũ lụt.

 

- Ổn định sản lượng khai thác thủy sản, tổ chức tốt các mô hình hợp tác sản xuất và áp dụng các công nghệ mới nhằm tăng hiệu quả đánh bắt xa bờ, gắn hoạt động khai thác với bảo vệ chủ quyền các vùng biển, giảm dần và ổn định sản lượng khai thác gần bờ… Xây dựng cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá đồng bộ, vững chắc, đảm bảo đánh bắt lâu dài trên biển. Cung cấp dịch vụ phục vụ khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; chú trọng đầu tư các phương tiện kỹ thuật cho lực lượng cứu hộ, cứu nạn và ngư dân, đảm bảo khai thác an toàn và hiệu quả.

 

Phát triển nuôi trồng thủy sản hợp lý, đa dạng đối tượng nuôi, phát huy lợi thế của từng vùng; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi trường nuôi. Tiếp tục thu hút các thành phần kinh tế đầu tư các khu sản xuất giống thủy sản tập trung, chất lượng cao; bên cạnh các đối tượng nuôi trồng truyền thống, chú ý mở rộng một số đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như: sò huyết, bào ngư, cá bớp, cá ngựa… Đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng vùng nuôi, phát triển dịch vụ nuôi trồng thủy sản, xây dựng vùng nuôi an toàn, bền vững, hiệu quả cao. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm thuỷ sản như cá ngừ đại dương, tôm hùm; xây dựng chợ đầu mối hải sản.

 

1.4- Tài chính, ngân sách: Tăng cường đầu tư, phát triển và nuôi dưỡng nguồn thu một cách vững chắc; khai thác nguồn thu đúng pháp luật, huy động đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước. Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước hàng năm đạt trên 17%.

 

Ưu tiên bố trí chi đầu tư, xây dựng các công trình thiết yếu và sự nghiệp phát triển ngành phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Đảm bảo ngân sách cân đối chi phục vụ các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa thông tin, môi trường, khoa học công nghệ và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội.

 

1.5- Định hướng thu hút vốn đầu tư: Đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp-dịch vụ- nông nghiệp. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm khoảng 55.000 tỉ đồng.

 

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng như: kết cấu hạ tầng, các ngành nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông - lâm - thủy sản xuất khẩu, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp phụ trợ; chăm sóc y tế và phát triển nguồn nhân lực; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng; các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn; các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội, bảo đảm môi trường; ưu tiên thu hút vào các địa bàn miền núi, vùng khó khăn, nông thôn.

 

1.6- Phát triển các thành phần kinh tế: Tiếp tục kiện toàn, phát triển các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế hợp tác được tiếp tục giúp đỡ để phát triển, khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Đến năm 2015, số doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế có vốn hoạt động tăng và số lượng lớn hơn 2 lần so với năm 2010.

 

Khuyến khích cộng đồng dân cư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, công khai minh bạch các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh, gia nhập thị trường, thuế, vay vốn… Ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống đăng ký kinh doanh, thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin chung về doanh nghiệp. Tăng cường theo dõi, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh nhằm bảo đảm hoạt động đúng pháp luật.

 

1.7- Phát triển kết cấu hạ tầng: Đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng, tập trung xây dựng hoàn thành các dự án hạ tầng quan trọng về giao thông, thủy lợi, điện, bưu chính viễn thông... phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh gắn kết với sự phát triển chung của toàn vùng theo định hướng Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị (khóa IX).

 

- Về giao thông: đảm bảo giao thông đường bộ thông suốt, thuận lợi, gắn kết tỉnh Phú Yên với các tỉnh trong khu vực và cả nước, giữa các huyện trong tỉnh; chú ý đường nối liền các cảng biển, sân bay, đô thị ven biển với các huyện phía Tây, đường Đông Trường Sơn và các tỉnh Tây Nguyên.

 

Hoàn thành các trục giao thông Đông-Tây nối vùng biển và ven biển với vùng miền núi, kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với an ninh-quốc phòng và cứu nạn, cứu hộ, gồm: Khẩn trương hoàn thành tuyến đường ĐT 643 Tuy An - Sơn Hòa, triển khai tuyến ĐT 644 Sông Cầu - Đồng Xuân; nâng cấp Quốc lộ 25, nghiên cứu và sớm triển khai tuyến ĐT 645B và nâng cấp ĐT 645 lên quốc lộ (Quốc lộ 29); đầu tư tuyến ĐT 650; tuyến đường nối Phú Yên - Gia Lai qua huyện Đồng Xuân và huyện Krông Chro và nâng cấp một số tuyến quan trọng khác. Phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và tỉnh Đắk Lắk nghiên cứu triển khai dự án đường sắt đi Buôn Ma Thuột.

 

Tạo điều kiện để sớm khởi công hầm đường bộ đèo Cả; mở rộng, nâng cấp và khai thác hiệu quả cảng Vũng Rô. Phối hợp Tổng Công ty cụm cảng miền Trung nâng cấp, mở rộng ga hàng không Tuy Hòa phục vụ vùng kinh tế Nam Phú Yên và phát triển du lịch.

 

- Về thủy lợi: Tiếp tục sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, vốn đầu tư của địa phương và vốn nước ngoài để nâng cấp, hiện đại hóa các hệ thống thủy lợi theo hướng đa mục tiêu; tăng nhanh năng lực tưới, tiêu chủ động của hệ thống thủy lợi để mở rộng diện tích lúa 2 vụ và mở rộng diện tích tưới cho các loại cây công nghiệp ngắn ngày, hoa màu phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển thủy lợi miền núi, vùng khó khăn. Khẩn trương hoàn thành kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu, trong đó chú ý đầu tư sớm và khai thác có hiệu quả các dự án thủy lợi cấp bách phục vụ phòng, chống thiên tai: kè chống xói lở hạ lưu sông Tam Giang, một số đoạn trên sông Ba, sông Bàn Thạch, cửa Đà Nông, cửa Tân Quy, sông Cái; triển khai thực hiện hệ thống đê biển ở những đoạn xung yếu… Tiếp tục thực hiện Chương trình kiên cố hoá kênh mương.

 

- Về Bưu chính – Viễn thông: Phát triển kết cấu hạ tầng thông tin với công nghệ hiện đại, thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, hoạt động hiệu quả, an toàn. Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng - an ninh của khu vực. Mở rộng hoạt động viễn thông công ích ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

 

- Cấp điện, cấp nước: Đầu tư hoàn chỉnh hệ thống cấp điện, cấp nước, đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu về năng lượng điện, nước sinh hoạt và nước sản xuất. Hoàn thành chương trình thoát nước TP Tuy Hòa từ nguồn vốn vay ADB. Sớm triển khai Chương trình cấp nước cho Khu kinh tế Nam Phú Yên và Khu kinh tế Vân Phong; hoàn thành và đưa vào sử dụng các Nhà máy nước ở các thị trấn mới; nâng công suất Nhà máy nước Sông Cầu lên 10.000m3/ngày đêm, mở rộng mạng lưới cấp nước Nhà máy nước Tuy Hòa.

 

1.8- Phát triển vùng, lãnh thổ: Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng và có sự liên kết giữa các vùng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đảm bảo tăng trưởng bền vững, hiệu quả. Bước đầu hình thành các vùng kinh tế động lực ven biển của tỉnh có tác dụng lôi kéo các vùng khác phát triển, là địa bàn quan trọng để thu hút đầu tư và liên kết vùng với các tỉnh lân cận. Đẩy mạnh hợp tác để hình thành vùng kinh tế trọng điểm Nam Phú Yên-Bắc Khánh Hòa.

 

- Đối với vùng đồng bằng: Phát triển công nghiệp nông thôn và TTCN. Hình thành các cơ sở công nghiệp chế biến quy mô vừa và nhỏ với nhiều trình độ công nghệ, phát triển làng nghề, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển dịch vụ, làm vệ tinh cho xí nghiệp lớn, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động.

 

Phát triển hệ thống thủy lợi, đảm bảo chủ động nước tưới cho cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Kết hợp với các cơ sở nghiên cứu hình thành bộ giống cây, con phù hợp với điều kiện của từng tiểu vùng; áp dụng tiến bộ khoa học trong sản xuất, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Phát triển các loại hình du lịch đồng quê, du lịch tham quan làng nghề thủ công mỹ nghệ gắn với các tuyến du lịch biển, núi...

 

Nghiên cứu đầu tư các tuyến giao thông liên kết vùng: Tuyến Bình Kiến- Phú Hòa- Phú Thứ- ĐT 645B; tuyến Hoà Kiến - ĐT643.

 

- Đối với vùng miền núi: Phát huy tối đa nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư từ bên ngoài để đưa kinh tế vùng phát triển nhanh và bền vững, từng bước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, đẩy lùi các tập tục lạc hậu, bảo vệ tốt quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Tăng cường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, y tế, thủy lợi, cấp nước sinh hoạt và giải quyết đất sản xuất cho dân khu vực miền núi.

 

Hoàn thành Trục giao thông phía Tây tỉnh, ĐT 648, hình thành tuyến giao thông ngang liên kết vùng. Hỗ trợ đầu tư một số tuyến đường nông thôn miền núi. Chú trọng đầu tư về thuỷ lợi và cấp nước sinh hoạt cho khu vực miền núi.

 

- Đối với vùng biển và ven biển: Xây dựng vùng biển và ven biển có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền vững; là khu vực kinh tế đa ngành, đa chức năng, trình độ phát triển tiên tiến, cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại với các sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh cao... để kéo theo sự phát triển kinh tế chung của cả tỉnh. Tập trung xây dựng khu kinh tế Nam Phú Yên trở thành địa bàn phát triển đột phá, cực phát triển quan trọng, trung tâm giao thương và công nghiệp, cảng biển của vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, có hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng đồng bộ, hiện đại.

 

Hoàn thành tuyến đường bộ ven biển, các tuyến đường nối từ quốc lộ 1A đến các xã bãi ngang ven biển. Tổ chức nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đối với vùng ven biển để có giải pháp ứng phó phù hợp, đặc biệt là bảo đảm an toàn các khu dân cư và các đô thị ven biển.

 

- Phát triển đô thị: Hình thành hệ thống đô thị với trung tâm là TP Tuy Hòa và các đô thị gồm: Thị xã Sông Cầu; thị trấn Hoà Vinh, thị trấn Chí Thạnh, thị trấn Phú Hoà, thị trấn Phú Thứ, thị trấn Củng Sơn, thị trấn Hai Riêng, thị trấn La Hai, các thị tứ An Mỹ, Sơn Thành Đông, Vân Hòa. Hoàn thành sớm kết cấu hạ tầng huyện lỵ Đông Hòa, tiếp tục chuẩn bị điều kiện để đưa huyện Đông Hoà trở thành thị xã trong giai đoạn 2015 - 2020; cơ bản hoàn thành kết cấu hạ tầng huyện lỵ Tây Hòa trước năm 2015. Phấn đấu đưa TP Tuy Hòa lên đô thị loại 2 chậm nhất vào năm 2013; chuẩn bị điều kiện hạ tầng để hình thành thị trấn Vân Hòa sau năm 2015.

 

- Phát triển nông thôn: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển đô thị và phát triển nông thôn. Tổ chức lại dân cư và phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng hoàn thành quy hoạch dân cư nông thôn và từng bước sắp xếp, bố trí dân cư nông thôn theo quy hoạch. Ở mỗi huyện, thị xã, thành phố xây dựng được 2-3 xã đạt theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới để rút kinh nghiệm thực hiện trong giai đoạn tiếp theo. Hoàn thành việc sắp xếp, bố trí lại các khu dân cư ở các vùng có nguy cơ lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt, triều cường...

 

2- Về văn hoá - xã hội - môi trường:

 

2.1- Giáo dục, đào tạo: Thực hiện phổ cập mẫu giáo 5 tuổi; giữ vững phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Phấn đấu đến năm 2015, 70% số thanh niên trong độ tuổi có trình độ trung học phổ thông. Từng bước đầu tư toàn diện để Trường Đại học Phú Yên đủ điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo đa ngành, đa cấp, trung tâm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời liên kết với một số trường đại học để đào tạo sau đại học một số chuyên  ngành; nâng cấp Trường Trung cấp Y tế thành Trường Cao đẳng Y tế. Phối hợp và tạo điều kiện mở rộng Phân viện Học viện Ngân hàng, góp phần thúc đẩy các trường Cao đẳng Xây dựng số 3, Cao đẳng công nghiệp Tuy Hòa sớm lên đại học. Mở rộng mạng lưới cơ sở và quy mô đào tạo nghề, thu hút các thành phần kinh tế tham gia; triển khai dạy nghề cho lao động nông thôn; đổi mới chương trình dạy nghề đảm bảo phù hợp với yêu cầu thị trường lao động; nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, chú ý các trường ở khu vực miền núi. Phấn đấu đến năm 2015, có 55% số lao động qua đào tạo, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 41%.

 

Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đạt 100% chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực đổi mới phương pháp dạy - học, phương pháp đánh giá kết quả học tập từ bậc mầm non đến giáo dục nghề nghiệp và đại học; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục; đẩy mạnh dạy và học ngoại ngữ, tin học.

 

Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ, phát triển trường chuẩn quốc gia, trường học 2 buổi/ngày; hỗ trợ giáo dục cho các vùng và người học thuộc diện ưu tiên.

 

2.2- Khoa học và công nghệ: Nâng cao năng lực quản lý hoạt động khoa học và công nghệ đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ về cơ sở vật chất và nhân lực gắn với hiệu quả sử dụng. Tăng hàm lượng khoa học và công nghệ trong các sản phẩm sản xuất kinh doanh và dịch vụ, tạo sự chuyển biến về năng suất, chất lượng và hiệu quả ở một số ngành kinh tế quan trọng. Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng.

 

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý khoa học và công nghệ. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ, đảm bảo mức đầu tư 2% tổng chi ngân sách tỉnh/năm cho hoạt động khoa học công nghệ, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống, sản xuất; ưu tiên phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chú trọng công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của nông sản, thực phẩm. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu các sản phẩm hàng hóa trong tỉnh.

 

Quan tâm thu hút công nghệ cao vào một số ngành công nghiệp chủ lực, ngành dịch vụ và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh, tạo điều kiện để tăng cường phát triển tiềm lực khoa học công nghệ trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; chú ý việc ứng dụng khoa học công nghệ ở cấp huyện và xã. Tăng cường quản lý sở hữu trí tuệ; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến ISO 9001:2008.

 

2.3- Chăm lo phát triển văn hóa, thể dục thể thao: Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá và dịch vụ văn hoá, huy động nhiều nguồn lực chăm lo phát triển văn hoá; bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá của cộng đồng các dân tộc, gìn giữ sự thống nhất, đa dạng và phong phú của văn hoá địa phương. Phấn đấu đến năm 2015, đạt 92% số gia đình được công nhận gia đình văn hóa; 80% số thôn, buôn, khu phố văn hóa và 95% số cơ quan, đơn vị văn hóa.

Phát triển mạnh sự nghiệp thể dục, thể thao quần chúng, phấn đấu đến năm 2015 toàn tỉnh có 27% dân số tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 22% gia đình thể thao, 100% trường phổ thông và chuyên nghiệp thực hiện chương trình giáo dục thể chất, 98% cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang đạt tiêu chuẩn chiến sỹ khỏe, 100% huyện, thị, thành phố thành lập trung tâm thể dục thể thao và xây dựng nhà thi đấu đa năng; phát triển các môn thể thao thành tích cao có thế mạnh.

 

Tiếp tục nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí, xuất bản. Thành lập Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh trên cơ sở Đài Phát thanh tỉnh; tăng cường chất lượng báo Phú Yên hàng ngày, đưa Báo Phú Yên điện tử tiếng Anh vào hoạt động. Nâng cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực đội ngũ cán bộ trong các lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật, thông tin, báo chí, xuất bản.

 

2.4- Lao động, việc làm: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh; xây dựng và phát triển đội ngũ lao động có tay nghề cao. Tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm; tạo việc làm mới cho khoảng 117.500 lao động. Giảm tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị xuống dưới 4,7% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 87 - 88% vào năm 2015. Đến năm 2015, cơ cấu lao động khu vực nông -  lâm - thủy sản chiếm 56-57%, công nghiệp- xây dựng chiếm 18-19%, dịch vụ chiếm 25- 26% tổng lao động xã hội.

 

2.5- Thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội: Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo giảm nghèo nhanh và bền vững, bình quân giảm 2%/năm (theo chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011-2015), hoàn thành  việc xoá nhà tạm hộ nghèo giai đoạn 2011-2015.

 

Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các vùng đặc biệt khó khăn. Gắn dạy nghề, giải quyết việc làm với nâng cao trình độ và kiến thức cho người nghèo.

 

Thực hiện dân chủ và công bằng trong thụ hưởng các phúc lợi xã hội; xây dựng đời sống văn minh, xã hội lành mạnh, gia đình hạnh phúc, bảo đảm an toàn xã hội. Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và đối tượng có công với cách mạng. Có kế hoạch giải quyết dứt điểm về chính sách cho các đối tượng tham gia kháng chiến theo chỉ đạo của Chính phủ.

 

Thực hiện các quyền của trẻ em, tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em; xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em. Đảm bảo sự bình đẳng giới trong tham gia các hoạt động quản lý kinh tế- xã hội và gia đình.

 

2.6- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình: Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Chủ động kiểm soát tình hình dịch bệnh. Củng cố và hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ; tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế và có chính sách thu hút bác sỹ giỏi để đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa y tế. Chú trọng phát triển y dược học cổ truyền kết hợp chặt chẽ với y học hiện đại trong điều trị… Tiếp tục nâng cao y đức người thầy thuốc, mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện; phấn đấu để mọi người dân đều được cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Xây dựng Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh trở thành cơ sở khám và điều trị bệnh với chất lượng chuyên môn cao; hình thành một số bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh và hoàn thành việc nâng cấp bệnh viện tuyến huyện; khuyến khích xây dựng một số bệnh viện, phòng khám tư nhân chất lượng cao gắn với tăng cường quản lý nhà nước về y tế tư nhân để chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phấn đấu đến 2015, 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.

 

Kiểm soát sự gia tăng dân số với tốc độ tăng dân số bình quân khoảng 1,1%/năm. Duy trì mức giảm sinh 0,3‰/năm. Quy mô dân số đến năm 2015 dự kiến khoảng trên 926 nghìn người. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; chú trọng phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em, nâng cao chất lượng dân số.

 

2.7- Tích cực và chủ động bảo vệ môi trường: Sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng, thuỷ văn; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai; hoàn thành cơ bản hệ thống đê kè sông, biển ở các nơi thường xảy ra thiên tai và hệ thống đường giao thông cứu hộ, cứu nạn.

 

Gắn khai thác, sử dụng tiết kiệm hợp lý tài nguyên với tái tạo tài nguyên có khả năng phục hồi. Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường; kiểm soát hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Tăng cường công tác bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, chú ý bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị, ven biển. Phấn đấu giải quyết cơ bản chất thải ở các đô thị, khu công nghiệp, giải quyết 100% chất thải ở các cơ sở y tế.

 

Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản tài nguyên, khoáng sản, môi trường. Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; nâng cao ý thức của toàn dân về bảo vệ môi trường. Gắn bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế- xã hội theo quan điểm phát triển bền vững. Sớm hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 

3- Về quốc phòng- an ninh:

 

Tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng- an ninh, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng- an ninh trong tình hình mới”.

 

Tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh cả về tiềm lực lẫn thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc, xây dựng thế trận lòng dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Giáo dục quốc phòng- an ninh các cấp; thành lập Trung tâm giáo dục quốc phòng tỉnh đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng- an ninh cho các đối tượng. Nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh.

 

Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng- an ninh, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống; có phương án chủ động ngăn ngừa và đối phó hiệu quả với các tình huống phức tạp về an ninh trật tự. Nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân và làm thất bại về âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ; chủ động phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phòng và chống “tự diễn biến” có hiệu quả.

 

Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng- an ninh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, chú ý khu vực miền núi, vùng biển, đảo và các vùng trọng điểm theo kế hoạch phòng thủ của tỉnh.

 

Xây dựng lực lượng quân sự, biên phòng và công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, thực sự trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, không để xảy ra tình huống bị động, bất ngờ.

 

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh, thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa 3 lực lượng: quân sự, biên phòng và công an trong công tác bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn trọng điểm. Tổ chức tốt hoạt động liên tịch giữa các lực lượng quân sự, biên phòng, công an với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang.

 

4- Công tác nội chính:

 

Tiếp tục thực hiện tốt chương trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị; nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Hạn chế đến mức thấp nhất việc điều tra, truy tố, xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm; hạn chế án kháng nghị, án hủy. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao chất lượng công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và thi hành pháp luật. Thực hiện tốt các quy chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trong tỉnh.

 

5- Công tác thanh tra, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí:

 

Tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết TW3 (khoá X), Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại- tố cáo, chiến lược Quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và các văn bản liên quan tạo điều kiện cán bộ và nhân dân theo dõi, giám sát việc thực hiện. Phát huy tinh thần trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là sự phối hợp hiệu quả trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có liên quan đến hành vi tham nhũng. Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính và mua sắm tài sản công, xây dựng cơ bản của các cơ quan, đơn vị và trong kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định pháp luật. Chuyển đổi vị trí công tác của các cán bộ, công chức trong diện được quy định.

 

Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và nhân dân, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi tham nhũng và bao che tham nhũng, lãng phí; tôn vinh những tấm gương liêm chính và tích cực trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.

 

Đổi mới công tác thanh tra và tăng cường thanh tra việc thực hiện chức trách nhiệm vụ công vụ, việc thực hiện phòng, chống tham nhũng. Cơ quan thanh tra chuyên ngành tập trung vào thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của mọi tổ chức, cá nhân; xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính, đảm bảo trật tự kỷ cương pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội.

 

Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, viên chức phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.

 

6- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể nhân dân vững mạnh:

 

Tiếp tục phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể nhân dân trong việc kiện toàn tổ chức và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

6.1- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: Tiếp tục thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

 

Ban hành các cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước các cấp, mọi cán bộ, công chức, đảng viên, đại biểu dân cử đều phải chịu sự giám sát của nhân dân. Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội.

 

Thực hành dân chủ trong sinh hoạt và đổi mới phong cách làm việc trong từng cấp ủy đảng, từng cơ quan trong hệ thống chính trị và trong cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải thật sự là tấm gương thực hiện dân chủ. Thực hành dân chủ rộng rãi, phê phán và xử lý nghiêm những hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, chống quan liêu, dân chủ hình thức; đồng thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.

 

6.2- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; xây dựng cơ chế, quy định để tạo điều kiện cho nhân dân bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình.

 

Chăm lo xây dựng lực lượng cốt cán, già làng có uy tín trong dân tộc thiểu số, người có uy tín trong thôn, buôn, khu phố…, những người tiêu biểu trong các chức sắc tôn giáo, trí thức, người Phú Yên sinh sống trong và ngoài nước. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền trong tỉnh.

 

Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo. Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống. Tiếp tục chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hoá, hình thức; làm tốt công tác vận động quần chúng theo phương châm: tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.

 

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân trong tỉnh về số lượng, ý thức giai cấp, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển mạnh Công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

 

Xây dựng, phát huy vai trò quan trọng của nông dân trong sự nghiệp đổi mới. Nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và được hưởng lợi tương xứng trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.

 

Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ có chất lượng cao và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công- nông- trí thức. Có chế độ, chính sách thích hợp để thu hút sự đóng góp hiệu quả của đội ngũ trí thức vào sự nghiệp chung.

 

Chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xem như xây dựng Đảng trước một bước. Tập hợp giáo dục, rèn luyện thanh thiếu nhi để thực sự trở thành lực lượng dự bị và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

 

Thực hiện tốt bình đẳng giới; nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chế độ, chính sách đối với lao động nữ theo quy định pháp luật, nhất là chế độ chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, tuổi về hưu…

 

Phát huy vai trò của Cựu chiến binh, Cựu quân nhân trong hỗ trợ, giúp nhau sản xuất, cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo, giáo dục thế hệ trẻ; tham gia xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị.

 

Tạo điều kiện phát triển, phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh nhân, xây dựng đội ngũ doanh nhân trong tỉnh có đức, có tài; tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực, cháu con hiếu thảo”; thực hiện tốt Luật Người cao tuổi.

 

Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài; khuyến khích đồng bào Phú Yên định cư ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng quê hương, đất nước.

 

7- Xây dựng chính quyền vững mạnh:

 

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và UBND các cấp, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Đổi mới công tác tiếp xúc cử tri; phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân cấp trên, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đòan thể nơi không tổ chức HĐND đối với hoạt động UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp. Lãnh đạo tốt công tác bầu cử đại biểu Quốc hội; bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.

 

Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức, công dân. Tổng kết 10 năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010; xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011- 2020. Đẩy mạnh việc phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng ngành, từng cấp. Xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết tốt các khiếu kiện hành chính. Từng bước hiện đại hoá hành chính công, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước và dịch vụ công, triển khai chính quyền điện tử. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, phường và thí điểm bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân.  

 

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa ứng xử, ý thức trách nhiệm và sự tận tuỵ đối với nhân dân và công việc; có cơ chế đánh giá cán bộ đúng thực chất; có cơ chế từ chức, bãi nhiệm những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, suy thoái đạo đức, lối sống, nhân dân không tín nhiệm; cán bộ cấp trưởng đảm nhiệm không quá hai nhiệm kỳ; bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức, tăng quyền hạn cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền; chú trọng việc đổi mới việc thi tuyển công chức; tuyển chọn và thu hút nhân tài. Tiếp tục nghiên cứu phân vạch địa giới hành chính một số xã, phường, thị trấn phù hợp.

 

8- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng:

 

Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần xã hội. Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng bộ.

 

Tổ chức quán triệt và thực hiện tốt Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (giai đoạn 2011 - 2020), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (2010-2015), các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

 

Thực hiện tốt công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng, những nhiệm vụ công tác lý luận theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X); nâng cao chất lượng tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công dân trong Trường Chính trị tỉnh, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân và trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị, thành phố.

 

Chủ động nắm và dự báo tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống các khuynh hướng tư tưởng sai trái, cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa, tham ô, tư lợi, cơ hội…

 

Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, thực hiện tốt quy định mọi đảng viên có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp uỷ đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Tăng cường đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch; phòng ngừa và khắc phục có kết quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.

 

Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương, tổng kết Cuộc vận động vào năm 2011. Thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng; định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.

 

Đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo đúng chủ trương của Đảng, đảm bảo tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cấp chính quyền và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

 

Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, xây dựng các giải pháp củng cố và đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức đảng. Tập trung chỉ đạo củng cố các tổ chức đảng yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng.

 

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy cơ sở đến sinh hoạt Tỉnh ủy, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, gìn giữ sự đoàn kết, thống nhất, cởi mở và tin cậy trong tập thể lãnh đạo, trong nội bộ Đảng. Thực hiện tốt quy chế chất vấn trong Đảng.

 

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, chuyên gia giỏi trên một số lĩnh vực… bảo đảm tính kế thừa và phát triển. Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy. Thực hiện trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở. Xây dựng và triển khai chương trình đưa sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở xã, phường, thị trấn.

 

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, chú ý việc phát triển đảng viên ở các thôn, buôn, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp còn ít đảng viên, hoặc chưa có đảng viên; phấn đấu phát triển đảng viên mới hàng năm tăng từ 6-7% so với số đảng viên toàn Đảng bộ. Các huyện, thị, thành ủy và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh hàng năm thành lập từ 1-2 chi bộ tại các doanh nghiệp có lực lượng lao động ổn định, sản xuất phát triển. Tập trung tạo chuyển biến về công tác đảng viên; cụ thể hoá các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống đối với đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới. Phát huy tính tiền phong, gương mẫu, tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.

 

Tăng cường hơn nữa công tác dân vận của Đảng theo hướng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động sát dân, sát cơ sở, xây dựng cốt cán trong các hội, đoàn thể quần chúng và các tầng lớp nhân dân; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân; tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân bày tỏ ý kiến, nguyện vọng chính đáng của mình.

 

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra việc chấp hành chủ trương của Đảng trên các lĩnh vực; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, về đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú trọng kiểm tra người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể.

 

Phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của chính quyền, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan. Người đứng đầu trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

 

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra và hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên vi phạm.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc. Đổi mới cách ra nghị quyết và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp, sâu sát cơ sở; nói đi đôi với làm.

 

IV/ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:

 

1- Tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện 3 nhiệm vụ có tính đột phá sau:

 

- Xây dựng hoàn thành kết cấu hạ tầng khu kinh tế Nam Phú Yên giai đoạn 1 và một số công trình giao thông quan trọng như: tuyến đường ven biển, nâng cấp cảng Vũng Rô, trục giao thông phía Tây của tỉnh. Trên cơ sở này, tạo điều kiện các chủ đầu tư triển khai Nhà máy lọc dầu và đầu tư hình thành một số khu du lịch theo quy hoạch. Đồng thời phối hợp triển khai xây dựng cảng hàng không Tuy Hoà, hầm đường bộ đèo Cả, nâng cấp Quốc lộ 25, nâng cấp ĐT 645 thành Quốc lộ.

 

- Tạo một bước chuyển biến trong việc thực hiện mục tiêu phát triển hiệu quả và bền vững trong nông nghiệp và nông thôn. Bố trí vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng gấp 2,5 – 3 lần so với giai đoạn 2006-2010, tập trung cho thuỷ lợi, giao thông nông thôn, ứng dụng khoa học và công nghệ nhất là công nghệ sinh học và sau thu hoạch, phòng chống dịch bệnh, trồng rừng…

 

- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Tập trung thực hiện mục tiêu phổ cập trung học phổ thông cho 70% thanh niên trong độ tuổi, tổ chức thực hiện tốt Đề án dạy nghề 5 năm (2011 – 2015) và Đề án đào tạo và thu hút trí thức về tỉnh. Hoàn thành việc kiên cố hóa trường học các cấp, đầu tư Trường Đại học Phú Yên và các cơ sở đào tạo, dạy nghề của tỉnh và phối hợp nâng cấp các cơ sở đào tạo của Trung ương trên địa bàn

 

2- Công tác quy hoạch:

 

Triển khai thực hiện tốt các quy định về lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch. Tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch trên các lĩnh vực, nhất là quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển sản phẩm, ngành, lĩnh vực phù hợp theo những định hướng lớn của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, gắn xây dựng quy hoạch với xây dựng các cơ chế chính sách để tổ chức thực hiện quy hoạch. Công khai các quy hoạch để làm cơ sở triển khai thực hiện và thu hút đầu tư. Trong công tác quy hoạch, phải chú ý thích ứng với biến đổi khí hậu thời gian đến, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh và bảo vệ môi trường.

 

Phối hợp với tỉnh Khánh Hòa triển khai thực hiện Quy hoạch xây dựng vùng Nam Phú Yên-Bắc Khánh Hòa được Chính phủ phê duyệt. Triển khai quy hoạch chi tiết các khu chức năng trong Khu kinh tế Nam Phú Yên. Hoàn thành quy hoạch vùng, triển khai công tác quy hoạch phục vụ công cuộc xây dựng nông thôn mới.

 

3- Giải pháp phát triển thị trường:

 

Tiếp tục triển khai thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến việc tạo lập và vận hành đồng bộ, có hiệu quả các loại thị trường, tập trung vào các thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường bất động sản, lao động, tài chính và khoa học công nghệ.

 

Duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế. Tạo dựng thương hiệu riêng cho từng sản phẩm, từng doanh nghiệp. Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp về các thông tin thương mại, phát triển thương mại điện tử, lập sàn giao dịch điện tử; đầu tư để giúp doanh nghiệp chủ động và hoạt động có hiệu quả trong thời kỳ hội nhập. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến, quảng bá du lịch trong và ngoài nước. Có chính sách khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước, trong tỉnh và triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

 

Coi trọng và đáp ứng tốt các nhu cầu thị trường trong nước. Tích cực phát triển thị trường mới, thị trường nông thôn nhằm thực hiện tốt việc tiêu thụ hàng hóa, tạo điều kiện phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

 

4- Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội cho quá trình phát triển:

 

Huy động tối đa nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, sự hỗ trợ của Trung ương để đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Công khai các dự án và áp dụng rộng rãi các hình thức đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng theo các phương thức BOT, BT, PPP (đầu tư tư nhân sở hữu kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế-xã hội trong phạm vi danh mục đầu tư nhất định). Ưu tiên phân bổ vốn cho các huyện, thị, thành phố, ngành thực hiện tốt đầu tư xây dựng cơ bản; thực hiện tốt các chính sách và quy định pháp luật về quản lý đầu tư.

 

Làm tốt công tác quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất đai, đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư để triển khai thực hiện đúng tiến độ các công trình, dự án đã được phê duyệt. Công khai minh bạch việc sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác; thu hồi các diện tích mặt đất, mặt nước không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả để giao cho các nhà đầu tư khác thuê.

 

Nâng cao chất lượng công tác quản lý xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng, từ quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển đến chuẩn bị phê duyệt các dự án cụ thể, tổ chức thi công, giám sát…

 

Nâng cao chất lượng và hiệu quả của đầu tư, đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí; đồng thời tạo điều kiện thu hút nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đảm bảo huy động cao nhất các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là các lĩnh vực: Đầu tư phát triển hạ tầng; phát triển nông nghiệp, chế biến, bảo quản sau thu hoạch; công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

 

5- Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, cải thiện môi trường kinh doanh:

 

Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng, hình thành và tổ chức thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức, văn hóa doanh nhân và doanh nghiệp; hỗ trợ xây dựng một số thương hiệu mạnh ở Phú Yên.

 

Tăng cường hệ thống cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp; áp dụng tối đa công nghệ thông tin và giảm thiểu các đầu mối trong giải quyết thủ tục hành chính.

 

Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước. Đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp, nhưng tăng cường công tác hậu kiểm nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp để có những giải pháp kịp thời trong hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Công khai, minh bạch hóa môi trường đầu tư kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2015, chỉ số PCI của Phú Yên xếp vào nhóm Tốt.

 

6- Gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội:

 

Tiếp tục thực hiện các chương trình giảm nghèo theo hướng bền vững. Gắn giảm nghèo với đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội; tiếp tục khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…

 

Tập trung đầu tư phát triển kinh tế-xã hội ở một số vùng có tỉ lệ hộ nghèo cao; giảm dần khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các vùng. Hỗ trợ người nghèo có phương tiện làm ăn để thoát nghèo. Nâng mức đầu tư, trợ giúp cho người nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước.

 

Xây dựng và hoàn thiện từng bước hệ thống an sinh xã hội. Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; xây dựng hệ thống bảo trợ  xã hội trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội. Đa dạng hóa các loại hình trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội. Nâng cao nhận thức của xã hội về chia sẻ trách nhiệm đối với việc trợ giúp, chăm sóc những người cần được bảo trợ.

 

7- Tiếp tục nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước:

 

Tiếp tục sắp xếp bộ máy hành chính các cấp tinh gọn, đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt, có hiệu quả từ tỉnh đến xã.

 

Thực hiện các giải pháp xây dựng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức; đào tạo, đào tạo lại, đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Bố trí theo chức danh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh xây dựng chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo công dân.

 

Thực hiện công khai, minh bạch trong mua sắm tài sản công và xây dựng cơ bản, quản lý dự án đầu tư, xây dựng; tài chính và ngân sách nhà nước, huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; quản lý và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; sử dụng đất và các nguồn tài nguyên.

 

Phân cấp và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị; thu gọn đầu mối trong việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân và doanh nghiệp; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí.

 

8- Đẩy mạnh công tác dân vận, thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động xây dựng cơ sở. Tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và đường lối công tác dân vận của Đảng, xác định đúng mức vị trí công tác dân vận. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể làm công tác dân vận; đảng viên phải làm công tác dân vận. Tạo các điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội làm tốt việc vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xây dựng cơ sở, các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Phát huy cơ chế phối hợp cả hệ thống chính trị làm công tác dân vận, trong đó đề cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, vai trò phối hợp giữa chính quyền các cấp với các ngành, Mặt trận, đoàn thể và các hội quần chúng. Tăng cường công tác dân vận của các lực lượng vũ trang. Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng theo đúng Luật Thi đua- Khen thưởng; kịp thời phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến.

 

9- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà. Chăm lo thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; xử lý đúng đắn, kịp thời các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; có chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, điều hoà hợp lý lợi ích xã hội phù hợp giữa các dân tộc, các thành phần, các tầng lớp dân cư, các vùng đặc biệt khó khăn; gắn chăm lo đời sống vật chất với đời sống tinh thần của nhân dân. Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài.

 

Củng cố và nâng cao chất lượng chính trị của bộ máy chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể vùng tôn giáo và dân tộc thiểu số; phát triển Đảng, đào tạo cán bộ cốt cán, xây dựng lực lượng nòng cốt, đào tạo cán bộ chuyên sâu về công tác tôn giáo, dân tộc.

 

10- Không ngừng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, chú trọng việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 

 

Tiếp tục đổi mới việc xây dựng chỉ thị, nghị quyết và tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Thực hiện tốt các quy chế, quy định về nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị. Kiện toàn tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ máy của cơ quan chính quyền và các đoàn thể chính trị- xã hội. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.

*   *

*

Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong tỉnh đoàn kết, nhất trí, ra sức phấn đấu thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

 

Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta

 

T/M TỈNH ỦY

    BÍ THƯ

ĐÀO TẤN LỘC

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek