Thứ Tư, 16/10/2024 01:27 SA
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, xây dựng tỉnh Phú Yên sớm thoát ra khỏi tỉnh nghèo
Thứ Năm, 09/03/2006 09:54 SA

(BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHOÁ XIII TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH KHOÁ XIV NHIỆM KỲ 2005-2010)

 

Từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đến nay, trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình trong nước và trong tỉnh còn nhiều khó khăn, nhưng toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong tỉnh đã đoàn kết, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đạt được những thành tựu quan trọng.

 

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV có nhiệm vụ: Kiểm điểm đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ qua, khẳng định những thành tựu, ưu điểm, phân tích, tìm ra nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm thành công và yếu kém; đề ra phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu cho toàn Đảng bộ trong nhiệm kỳ (2006-2010) nhằm đưa tỉnh Phú Yên thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo.

 

PHẦN THỨ NHẤT:

 

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIII NHIỆM KỲ 2001-2005

 

I/ NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:

 

Các chỉ tiêu chủ yếu đã thực hiện như sau:

 

- Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2001-2005 là 10,7%/năm (chỉ tiêu: 10-10,5%).

 

- GDP bình quân đầu người: 6,04 triệu đồng (chỉ tiêu: 5,16 triệu đồng).

 

- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 19,6%/năm (chỉ tiêu: 19-20%/năm).

 

- Giá trị các ngành sản xuất nông-lâm-ngư­ nghiệp tăng bình quân 5,6%/năm (chỉ tiêu: 3,5 - 4%/năm).

 

- Nhịp độ tăng trưởng bình quân các ngành dịch vụ 12,1%/năm (chỉ tiêu: 10-11%/năm).

 

- Tỷ trọng nông-lâm-ngư nghiệp trong GDP năm 2005 chiếm 35,7% (chỉ tiêu: 32,9%); công nghiệp và xây dựng chiếm 30,0% (chỉ tiêu: 32,1%); dịch vụ: 34,3% (chỉ tiêu: 35%).

 

- Sản lượng lương thực có hạt năm 2005: 334 ngàn tấn (chỉ tiêu: 300 ngàn tấn).

 

- Giá trị các mặt hàng địa phương tham gia xuất khẩu năm 2005: 56,8 triệu USD (chỉ tiêu: 25-30 triệu USD).

 

- Thu ngân sách địa phương năm 2005: 501 tỷ đồng (chỉ tiêu: 370 tỷ đồng).

 

- Số xã, phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở: 94/106 xã, phường (kế hoạch hoàn thành công tác này vào năm 2007).

 

- Giải quyết việc làm bình quân hàng năm: 2,3 vạn người (chỉ tiêu: 1,7 vạn người).

 

- Mức giảm sinh bình quân hàng năm 0,53%o (chỉ tiêu: 0,5-0,6%o).

 

- Kết nạp đảng viên mới tăng bình quân 6,32%/năm so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ (chỉ tiêu: 6-7%).

 

Trên các lĩnh vực đạt được những kết quả cụ thể như sau:

 

1- Về thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế:

 

Nền kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân hàng năm tăng 10,7%, GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 6,04 triệu đồng/người (bằng 60,3% so với bình quân cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; cơ cấu ngành trong cơ cấu chung của nền kinh tế năm 2005 so với năm 2000 như sau: Công nghiệp-xây dựng tăng từ 22,7% lên 30,0%; dịch vụ tăng từ 33,2% lên 34,3%; nông-lâm-ngư nghiệp giảm từ 44,1% xuống 35,7%.

 

1.1- Sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp phát triển tương đối toàn diện, cơ cấu cây trồng vật nuôi có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,7%, chất lượng tăng trưởng khá; việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng nhiều và có hiệu quả; bước đầu hình thành các vùng chuyên canh cây nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến (mía 18.045 ha, điều 6.000 ha, sắn 10.565 ha…); bảo đảm an ninh lương thực trên địa bàn, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

 

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, bước đầu hình thành các mô hình kinh tế trang trại chăn nuôi bò đàn; đàn gia cầm tuy có ảnh hưởng tình hình dịch bệnh chung của cả nước, nhưng trong tỉnh không để xảy ra dịch, đàn gia cầm phát triển ổn định. Phong trào trồng cỏ nuôi bò bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế phát triển ngày càng sâu rộng trong nhân dân. Việc sind hoá đàn bò tiếp tục đẩy mạnh. Tổng đàn bò hiện có 201.642 con, trong đó bò lai 69.117 con, chiếm 34,3% tổng đàn.

 

Công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng được tăng cường, huy động được nhiều nguồn lực tham gia. Đã giao khoán bảo vệ 27.478 ha rừng, trồng mới trên 16.000 ha rừng, 10 triệu cây phân tán, góp phần nâng độ che phủ rừng toàn tỉnh từ 31% lên 36% (mục tiêu 37,6%).

 

Kinh tế thuỷ sản tiếp tục phát triển. Số lượng tàu thuyền, sản lượng khai thác, nuôi trồng thuỷ sản đều tăng. Giá trị sản xuất thuỷ sản tăng bình quân 7,9%/năm, sản lượng nuôi trồng tăng bình quân 2,8%/năm. Lực lượng tàu thuyền có khả năng đánh bắt xa bờ phát triển nhanh, cơ sở phục vụ hậu cần nghề cá được cải thiện; năm 2005 sản lượng thủy sản khai thác tăng 28% so với năm 2000, trong đó cá ngừ đại dương đạt 5040 tấn, tăng gấp 2,7 lần so với năm 2000. Nuôi trồng thuỷ-hải sản theo hướng đa dạng hoá đối tượng nuôi trồng đang phát triển thành một nghề sản xuất chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và kích thích các ngành công nghiệp và dịch vụ khác phát triển.

 

Kinh tế khu vực nông thôn từng bước được nâng lên, nhiều ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển thêm một số nghề mới; bước đầu hình thành một số mô hình kinh tế trang trại, các làng nghề làm ăn hiệu quả. Kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng, cải thiện đáng kể. 100% xã có điện lưới quốc gia, với 96% hộ sử dụng điện (khu vực miền núi 85%); 50% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch, 100% số xã có bưu điện văn hóa xã, sóng phát thanh truyền hình phủ 96% địa bàn dân cư. Bộ mặt nông thôn ngày thêm đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên.

 

1.2- Sản xuất công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 18,6%/năm, trong đó công nghiệp chế biến giữ được nhịp độ tăng trưởng cao (19,9%/năm) và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nội bộ ngành (89,2%). Đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp. Một số nhà máy mới được xây dựng đi vào hoạt động như: Chế biến thuỷ sản xuất khẩu, chế biến hạt điều, gỗ xuất khẩu, đá Granit, đường KCP, Xí nghiệp Dược, Nhà máy Bia…, góp phần giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách, đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu. Tổng kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu từ công nghiệp giai đoạn 2001-2005 đạt 136 triệu USD. Hình thành 3 khu công nghiệp tập trung và một số cụm, điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các địa phương.

 

1.3- Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng khá. Giá trị các ngành thương mại và dịch vụ tăng bình quân hàng năm 12,1%. Cơ cấu ngành dịch vụ có bước chuyển biến tích cực theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu đa dạng của sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phát triển tích cực, thị trường được mở rộng. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 185,4 triệu USD, bình quân tăng hàng năm 11,2%, trong đó hàng địa phương 170,3 triệu USD, chiếm 91,9%; riêng năm 2005 đạt 56,8 triệu USD (chỉ tiêu 25-30 triệu USD). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 đạt 65,9 USD/người. Các mặt hàng địa phương tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng như: Hải sản, nhân hạt điều, cà phê nhân, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ…

 

Hoạt động du lịch bước đầu có chuyển biến; từng bước qui hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng các khu du lịch, điểm du lịch; một số dự án đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đã và đang được triển khai xây dựng với giá trị đầu tư mới trên 70 tỷ đồng, tạo tiền đề cho phát triển du lịch những năm tiếp theo. Vận tải hàng hoá và vận chuyển hành khách phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân dân. Khối lượng vận tải hàng hoá tăng bình quân 5,3%/năm, vận chuyển hành khách tăng 5,1%/năm. Dịch vụ bưu chính-viễn thông phát triển mạnh, 100% xã có điện thoại đến trung tâm xã, tỷ lệ sử dụng điện thoại đạt 10,7 máy/100 dân.

 

1.4- Thu ngân sách địa phương tăng nhanh, bình quân tăng 13,2%/năm, đáp ứng gần 70% nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh. Cơ cấu nguồn thu đã có những chuyển biến tích cực. Các hoạt động tín dụng ngân hàng có nhiều tiến bộ, góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

 

1.5- Về đầu tư phát triển: Công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, đã huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm 9.487 tỷ đồng, bằng 49,8% GDP, tăng bình quân hàng năm 19,7% (kế hoạch 6.050 tỷ, bằng 33% GDP), trong đó vốn huy động trong dân và các thành phần kinh tế chiếm 39,1%, vốn thu hút từ bên ngoài chiếm 38,5%/tổng vốn.

 

Vốn đầu tư tập trung của tỉnh đã được ưu tiên bố trí cho các công trình trọng điểm về giao thông, thuỷ lợi, điện, cấp, thoát nước và xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, trường học, trạm xá… Đã hoàn thành xây dựng đưa vào khai thác nhiều tuyến giao thông quan trọng như: ĐT 645, ĐT 641, ĐT 642, đường Hùng Vương; QL25, đường tránh QL1A và cầu Đà Rằng mới; đang trong giai đoạn hoàn thành việc xây dựng kè chống ngập thành phố Tuy Hoà, chỉnh trị cửa sông Đà Nông, đường Khu công nghiệp Hoà Hiệp-Vũng Rô; hoàn thành chương trình điện khí hoá nông thôn; đầu tư xây dựng đưa vào vận hành 4 trạm biến áp 110/22 KV phục vụ các khu công nghiệp…; đưa Sân bay Tuy Hoà, cảng Vũng Rô, cảng cá Dân Phước, Tiên Châu vào hoạt động. Nhiều dự án giao thông quan trọng đang được triển khai: Trục dọc miền Tây, tuyến Độc Lập - Gềnh Đá Đĩa… Tiếp tục huy động nhiều nguồn lực đầu tư đẩy mạnh bê tông hoá hè phố, hẻm phố, kiên cố hoá giao thông nông thôn, đạt bình quân mỗi xã 4 km (chỉ tiêu 3-5 km). Hoàn thành hồ chứa nước Xuân Bình, hồ Đồng Tròn, nâng cấp hệ thống thuỷ nông Đồng Cam, Tam Giang, hồ Đồng Khôn, Tân Giang Thượng...; triển khai chương trình kiên cố hoá kênh mương, nâng cao năng lực tưới tiêu, bảo đảm 56% diện tích gieo trồng có tưới. Đầu tư nâng cấp, xây dựng mới một số nhà máy cấp nước bảo đảm nhu cầu nước sạch phục vụ các khu đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư tập trung trong tỉnh.

 

1.6- Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển và có bước chuyển dịch tích cực về cơ cấu, bước đầu huy động được tiềm năng và khơi dậy các nguồn lực mới cho sự phát triển. Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong cơ cấu thành phần kinh tế giảm từ 30,7% (năm 2000) xuống còn 27,8% (năm 2005), kinh tế ngoài quốc doanh tăng từ 68,78% lên 70,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 0,5% lên 1,8%, đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.

 

Các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, đổi mới; tập trung xử lý các doanh nghiệp giải thể, thúc đẩy cổ phần hoá theo lộ trình được phê duyệt. Phần lớn các doanh nghiệp sau khi được củng cố, sắp xếp, cổ phần hoá dần đi vào ổn định  hoạt động sản xuất kinh doanh.

 

Kinh tế tập thể được duy trì, phát triển và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động; có vai trò tích cực trong việc giúp cho các hộ thành viên sử dụng có hiệu quả hơn về đất đai, lao động, vốn…, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình được chú trọng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển; nhiều doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ, góp phần giải quyết lao động, việc làm cho nhân dân. Phát triển kinh tế trang trại với cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý.

 

1.7- Kinh tế-xã hội trong tỉnh được phân vùng qui hoạch đầu tư, phát triển đúng hướng, bước đầu phát huy được tiềm năng và lợi thế của từng vùng trong tỉnh, gắn qui hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh với quan hệ vùng và lãnh thổ của cả nước.

 

- Vùng miền núi: Kinh tế-xã hội có bước tăng trưởng và phát triển; đời sống đồng bào miền núi được cải thiện, bộ mặt nhiều vùng được đổi mới. Đầu tư cho phát triển miền núi được chú trọng, trong 5 năm đã đầu tư 1.400 tỷ đồng, chiếm 15% tổng mức đầu tư. Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống như: Giao thông, thuỷ lợi, trường học, trạm xá, điện, bưu điện văn hoá xã, nhà văn hoá thôn, buôn… Đến nay, các xã miền núi đặc biệt khó khăn đều có điện, đường ô tô đến trung tâm xã; 100% xã có trường tiểu học, trạm y tế, tại các trung tâm cụm xã có trường cấp II bán trú, phòng khám đa khoa khu vực. Tiềm năng về đất đai bước đầu được khai thác, sử dụng; đã qui hoạch, bố trí xây dựng các nhà máy chế biến, các cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu; hình thành các vùng chăn nuôi bò đàn tập trung theo kiểu kinh tế trang trại sản xuất nông-lâm kết hợp. Trong qui hoạch vùng miền núi của tỉnh luôn gắn quan hệ với 2 tỉnh Đăk Lăk, Gia Lai và vùng Tây Nguyên.

 

- Vùng đồng bằng: Đã đầu tư phát triển khá đồng bộ kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới. Theo qui hoạch phát triển, vùng này tập trung thâm canh cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây công nghiệp ngắn ngày; các cơ sở công nghiệp chế biến và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Làng nghề truyền thống được phục hồi; thương mại và dịch vụ có bước phát triển; từng bước khắc phục có hiệu quả thế thuần nông độc canh lúa và tình trạng lao động nông thôn thiếu việc làm; đời sống nhân dân được cải thiện; bộ mặt nông thôn đổi mới.

 

- Vùng ven biển: Cùng với việc qui hoạch, đầu tư xây dựng cảng Vũng Rô, các khu công nghiệp tập trung, các tuyến giao thông ven biển và đưa sân bay Tuy Hoà hoạt động trở lại… đã dần hình thành và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm cuả tỉnh gắn với sự phát triển chung của vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Kinh tế thủy sản phát triển cả về khai thác, nuôi trồng và chế biến; bước đầu hình thành các khu công nghiệp tập trung ven biển, các cơ sở dịch vụ du lịch biển, du lịch sinh thái. Quốc phòng an ninh tuyến ven biển được giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.

 

2- Về thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá-xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.

 

- Lĩnh vực giáo dục-đào tạo tiếp tục có chuyển biến về qui mô và chất lượng. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh; đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại hình đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực. Giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; tỷ lệ huy động trẻ em vào lớp 1 đúng độ tuổi đạt trên 99% (chỉ tiêu 100%), phổ cập trung học cơ sở 94/106 xã, phường. Cơ sở vật chất các trường học từng bước được trang bị, nâng cấp, kiên cố hoá, nhiều trường học được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia, đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động được tăng cường, tỷ lệ lao động qua đào tạo ngày càng tăng, từ 16% năm 2000 lên 23,5% năm 2005 (chỉ tiêu 22-25%).

 

- Hoạt động khoa học công nghệ có tiến bộ, đã chú trọng nâng cao chất lượng các đề tài, dự án phục vụ yêu cầu sản xuất và đời sống. Trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất, xây dựng, dịch vụ… được nâng lên và từng bước được đổi mới. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ngày càng nhiều; phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất được đẩy mạnh.

 

- Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Các cơ sở y tế từng bước được đầu tư nâng cấp cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay, 100% xã, phường có trạm y tế hoạt động và được trang bị một số dụng cụ cần thiết phục vụ khám, chữa bệnh tuyến cơ sở; hơn 80% số trạm y tế có bác sĩ, 100% thôn, buôn có nhân viên y tế hoạt động. Công tác y tế dự phòng cơ bản đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch bệnh; các chương trình mục tiêu y tế quốc gia đạt hiệu quả tốt, khống chế không để các dịch bệnh lớn xảy ra; cơ bản thanh toán bệnh mù loà do đục thuỷ tinh thể. Đã thực hiện tốt chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình, mức giảm sinh bình quân hàng năm 0,53%o; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 1,62% xuống còn 1,35% (chỉ tiêu 1,35%); tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng từ 39% còn 26,9% (chỉ tiêu 22-25%); 70% trẻ em con hộ nghèo, trẻ em khuyết tật, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được trợ giúp về học tập và chăm sóc y tế.

 

- Hoạt động văn hoá-thông tin, thể dục-thể thao, báo chí, phát thanh-truyền hình có bước phát triển, chất lượng hoạt động được nâng lên, phục vụ tốt hơn nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được đẩy mạnh, đã có 74,4% số hộ gia đình, 54,2% số thôn, buôn, khu phố được công nhận gia đình văn hoá, đơn vị văn hoá. Báo Phú Yên, Đài Phát thanh được đầu tư nâng cấp, nâng cao chất lượng; Đài Truyền hình Phú Yên từ khi trở thành là Đài Trung ương khu vực đã được đầu tư nâng cấp, phát huy hiệu quả cao. 100% xã, phường có hệ thống đài truyền thanh; phủ sóng phát thanh, truyền hình 96% địa bàn dân cư, trên 80% số hộ dân có các phương tiện nghe nhìn. Hoạt động thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh, phong trào tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 17,9% dân số.

 

- Công tác giải quyết việc làm được quan tâm, đạt kết quả đáng kể, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 2,3 vạn người (chỉ tiêu 1,7 vạn người); triển khai chương trình xuất khẩu lao động đạt kết quả bước đầu. Cơ cấu lao động có bước chuyển dịch tích cực, lực lượng lao động khu vực nông - lâm - ngư nghiệp giảm từ 77,1% năm 2000 còn 69,2%, công nghiệp-xây dựng từ 6,7% năm 2000 tăng lên 11,2%, dịch vụ từ 16,2% tăng lên 19,6% năm 2005. Đã vận dụng thực hiện có kết quả chính sách, giải pháp đẩy mạnh thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo; số hộ nghèo (theo tiêu chí Quyết định số 143) mỗi năm giảm bình quân 2%, từ 15,3% năm 2000 giảm còn 5,1% năm 2005 (theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo còn 19,3%). Đến nay, các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ chính sách đã được hỗ trợ xây dựng nhà ở, cơ bản hoàn thành xoá nhà tạm hộ nghèo (giai đoạn 1). Công tác cứu trợ xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách được quan tâm tốt hơn; vận động xây dựng “Quĩ vì người nghèo”, “Quĩ đền ơn đáp nghĩa”, “Quĩ phòng chống bão lụt”, “Quĩ hỗ trợ đảng viên nghèo” đạt kết quả. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được các cấp, các ngành và nhân dân quan tâm.

 

3- Về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh:

 

Đã chủ động triển khai các chủ trương và biện pháp tăng cường quốc phòng-an ninh theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị khoá VIII về chiến lược an ninh quốc gia, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết 09, Nghị quyết 13 của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chương trình phòng chống ma túy, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, nhờ đó an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia bảo vệ chủ quyền vùng biển được phát huy, phát triển rộng khắp. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố, nhất là các địa bàn trọng yếu về kinh tế, chính trị. Tiềm lực quốc phòng-an ninh trong khu vực phòng thủ của tỉnh và các địa phương được tăng cường.

 

Các lực lượng vũ trang nhân dân trong tỉnh được xây dựng theo hướng chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới; chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu từng bước được nâng cao. An ninh miền núi và tuyến biển được đảm bảo. Đã bóc tách, vô hiệu hoá kịp thời và có kết quả không để bọn Fulrô, Tin Lành Đề ga xâm nhập vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở 3 huyện miền núi tổ chức các hoạt động lôi kéo, móc nối.

 

Công tác tấn công, trấn áp các loại tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng và giải quyết các tệ nạn xã hội đạt kết quả, trật tự an toàn giao thông có tiến bộ.

 

4- Công tác nội chính:

 

Tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Hiến pháp năm 1992 và các luật mới ban hành. Giáo dục pháp luật được chú trọng, pháp chế XHCN được tăng cường. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã được đánh giá đúng thực trạng và có giải pháp củng cố, kiện toàn, nhờ đó đã từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có chuyển biến theo hướng cải cách tư pháp, đúng pháp luật. Các khiếu kiện bức xúc, kéo dài về tư pháp được giải quyết.

 

5- Công tác vận động quần chúng:

 

- Công tác tuyên truyền giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân được tăng cường. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác dân vận, Mặt trận, đoàn thể, công tác dân tộc, tôn giáo được tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có tác dụng nâng cao nhận thức của nhân dân về đường lối chủ trương của Đảng, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ XHCN được củng cố, góp phần thúc đẩy phong trào hành động cách mạng ở các địa phương.

 

- Các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Ngày vì người nghèo” của Mặt trận các cấp và các phong trào thi đua yêu nước, sản xuất kinh doanh giỏi, lao động giỏi, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ việc làm, cứu trợ xã hội, phong trào tình nguyện… của các đoàn thể Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh, Công đoàn và Đoàn thanh niên… tiếp tục được đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực, đã khơi dậy mạnh mẽ truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận trong nhân dân.

 

- Hệ thống tổ chức Mặt trận, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Công đoàn, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh được củng cố, kiện toàn; chú trọng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tập trung hướng về cơ sở, địa bàn dân cư. Thông qua các cuộc vận động và các hoạt động phong trào, vị trí, vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội ngày càng nâng lên.

 

- Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được chỉ đạo thực hiện rộng rãi, nhân dân đồng tình, hưởng ứng tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, tác động tích cực đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân.

 

6- Xây dựng tổ chức bộ máy và hoạt động của Nhà nước:

 

Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn và từng bước đổi mới hoạt động theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả.

 

- Hoạt động của HĐND các cấp ngày càng được cải tiến và nâng cao chất lượng, bao gồm: Chất lượng các kỳ họp, các quyết định của HĐND, chất lượng giám sát và hoạt động tiếp xúc cử tri, nhờ đó dân chủ được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.

 

- Hoạt động của UBND các cấp có chuyển biến, tiến bộ. Công tác chỉ đạo, điều hành có hiệu lực, hiệu quả hơn; công tác cải cách hành chính và phân cấp quản lý bước đầu đạt kết quả tích cực; công tác địa giới hành chính được thực hiện tốt, hoàn thành việc điều chỉnh địa giới hành chính chia tách thị xã Tuy Hoà thành 2 đơn vị hành chính mới là thị xã Tuy Hoà và huyện Phú Hoà; thành lập thành phố Tuy Hoà; chia tách huyện Tuy Hoà thành 2 huyện Đông Hoà, Tây Hoà và điều chỉnh địa giới hành chính một số xã, phường phù hợp yêu cầu của sự phát triển trong giai đoạn mới.

 

- Bộ máy tổ chức và cán bộ các sở, ngành, các địa phương được kiện toàn theo qui định, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ.

 

- Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tư pháp từng bước được củng cố kiện toàn; chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng được nâng lên theo yêu cầu cải cách tư pháp.

 

7- Xây dựng Đảng:

 

- Tình hình tư tưởng trong Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân ổn định, đoàn kết, tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 

- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được tăng cường, đổi mới; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống cách mạng, ý thức bảo vệ thành quả cách mạng và những thành tựu trong công cuộc đổi mới; đã mở nhiều lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ các cấp từ cơ sở đến tỉnh, nhờ vậy đã nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, góp phần củng cố đoàn kết, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân vượt qua khó khăn, thử thách, vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước.

 

- Công tác tổ chức, xây dựng Đảng có nhiều tiến bộ. Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đạt được những chuyển biến tích cực. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm được chỉ đạo chặt chẽ, thực hiện đúng quy trình, sát với thực tế hơn; số tổ chức cơ sở đảng yếu kém từ 3,9% (năm 2000) giảm còn 0,8% (năm 2004); số tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh tăng từ 60,3% (năm 2000) lên 75,4% (năm 2004); đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 74,3%, trong đó đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm gần 19%. Trong 5 năm đã kết nạp 5.620 đảng viên mới; thành lập thêm tổ chức đảng ở 23 thôn buôn, không còn thôn buôn trắng đảng.

 

- Công tác nhận xét, đánh giá, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, quản lý được thực hiện đạt kết quả tích cực; trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ mới. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng. Các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ được thực hiện đầy đủ. Ngoài ra, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã chủ động đề ra và tổ chức thực hiện tốt một số chính sách của tỉnh như: Chính sách trợ giúp đảng viên nghèo, chế độ trợ cấp cán bộ học tập; tham quan trong nước và nước ngoài, kiểm tra sức khoẻ và lập sổ khám, chữa bệnh ở tuyến Trung ương, đã có tác dụng động viên, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của các đối tượng chính sách.

 

- Cuộc vận động “xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí” tiếp tục được đẩy mạnh, đạt kết quả tích cực. Các vụ việc nổi cộm qua kiểm tra kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (2) (khoá VIII) cơ bản đã được giải quyết; đã chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng cơ bản, chi tiêu hành chính và đã mang lại kết quả bước đầu.

 

- Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được tăng cường, coi trọng việc kiểm tra chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đồng thời  đẩy mạnh công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm; vừa tăng cường công tác kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với cấp dưới, vừa chú trọng chỉ đạo các tổ chức đảng tự kiểm tra. Gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng hệ thống chính trị, góp phần thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Trong 5 năm qua, cấp uỷ đảng các cấp đã thành lập 328 đoàn (tổ) kiểm tra, tiến hành kiểm tra 1.070 tổ chức đảng; Uỷ ban kiểm tra đảng các cấp đã tổ chức kiểm tra 5.632 đảng viên và 908 tổ chức đảng, kết luận 1.272 đảng viên và 164 tổ chức đảng vi phạm. Đã xử lý kỷ luật 640 đảng viên và 05 tổ chức đảng. Đồng thời giải quyết 265 đơn thư tố cáo đảng viên và tổ chức đảng, 36 vụ khiếu nại kỷ luật đảng.

 

Qua kiểm tra của cấp uỷ đảng và UBKT đảng các cấp đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các vi phạm, có tác dụng giáo dục, ngăn ngừa đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.

 

II/ NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM, YẾU KÉM:

 

- Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, huy động vốn đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, các vùng phát triển chưa đồng đều. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm. Thu nhập bình quân đầu người đạt vượt chỉ tiêu đề ra nhưng thấp hơn mức bình quân chung cả nước; nguy cơ tụt hậu về kinh tế của tỉnh ta so với các vùng phát triển trong nước còn lớn.

 

- Nguồn lực và tiềm năng trong tỉnh chưa được huy động và khai thác sử dụng tốt, nhất là vùng đất phía Tây, vùng ven biển. Trong sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa vững chắc; đầu tư thâm canh thấp; năng suất, sản lượng, chất lượng một số cây trồng chủ lực chưa cao; các chương trình phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn chậm được triển khai, ngành chăn nuôi chưa thật sự trở thành ngành sản xuất chính; ngành thủy sản chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa chú trọng quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng thủy lợi và hạ tầng kỹ thuật cho vùng nuôi, chưa tìm ra giải pháp phòng chống dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường làm cho người nuôi tôm sú thua lỗ kéo dài. Công tác quản lý, bảo vệ rừng còn hạn chế, trồng rừng chưa đạt kế hoạch đề ra.

 

- Đầu tư khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ chưa đúng mức, chuyển giao công nghệ chậm, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và yêu cầu nhiệm vụ của một số ngành.

 

- Một số lĩnh vực dịch vụ phát triển chưa mạnh; du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn kém. Công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, quảng bá du lịch… chưa đủ độ thuyết phục nhà đầu tư để thu hút vốn đầu tư và mở rộng thị trường.

 

- Công tác quản lý xây dựng cơ bản tuy có chuyển biến tốt, nhưng vẫn còn dàn trải. Một số mặt công tác triển khai thực hiện dự án chưa tốt như: Lập thủ tục đầu tư, công tác bền bù, giải phóng mặt bằng; quản lý, giám sát công trình, dự án; một số công trình xây dựng cơ bản chưa đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình chưa tốt, thanh quyết toán chậm. Công tác quản lý đất đai tuy được chú trọng nhưng còn là khâu yếu; công tác quy hoạch quản lý và xây dựng đô thị còn thiếu kinh nghiệm; công tác quản lý khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường còn có mặt bất cập.

 

- Việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Kinh tế tập thể phát triển không đều, một số hợp tác xã chậm được đổi mới, hoạt động đơn điệu, sức cạnh tranh thấp. Kinh tế tư nhân phát triển, nhưng năng lực vốn hạn chế, quy mô nhỏ, đội ngũ quản lý đa số chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ.

 

Nhìn chung trên địa bàn tỉnh chưa có những doanh nghiệp lớn đóng vai trò chủ lực cho nền kinh tế.

 

- Trong điều kiện nhiều khó khăn, bên cạnh những thành tựu về chăm lo đời sống xã hội còn những điểm yếu: Chất lượng giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, công tác dân số và gia đình còn bộc lộ nhiều hạn chế. Số lao động chưa có việc làm còn nhiều.

 

An ninh nông thôn, miền núi có lúc, có nơi chưa tốt; số vụ tai nạn giao thông và số người chết do tai nạn giao thông có giảm, nhưng chưa cơ bản.

 

- Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo nhất là trên lĩnh vực đất đai tuy có tiến bộ nhưng tình hình tranh chấp khiếu kiện vẫn còn nhiều việc kéo dài dẫn đến phức tạp. Đối với một số vụ án tồn đọng và phát sinh trong nhiệm kỳ, Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo xử lý nhưng các cơ quan chức năng giải quyết chậm, thiếu đồng bộ, gây dư luận không tốt trong cán bộ và nhân dân.

 

- Tổ chức và hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể  còn một số mặt chậm đổi mới, chưa thật sự hướng về cơ sở. Một số sở, ngành, địa phương triển khai cơ chế “một cửa” chậm; thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực còn phức tạp, phiền hà; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; ý thức trách nhiệm của một số cán bộ công chức còn hạn chế. Công tác vận động quần chúng của các tổ chức trong hệ thống chính trị có mặt thiếu linh hoạt, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

- Việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện một số nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy ở một số tổ chức đảng chưa tốt, hiệu quả chưa cao. Một số nghị quyết của Đảng chậm đi vào cuộc sống. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác nhận xét đánh giá cán bộ, đánh giá chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên ở một số địa phương, đơn vị chưa thực chất.

 

- Phương thức lãnh đạo của một số ít cấp ủy và tổ chức đảng chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới; chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý điều hành của chính quyền trong một số lĩnh vực còn chồng chéo, thiếu cụ thể.

 

- Thời gian gần đây, quan hệ giữa một số đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy có biểu hiện không bình thường, thiếu thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo một số vụ việc nổi cộm và có biểu hiện bằng mặt không bằng lòng, gây ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất trong hạt nhân lãnh đạo của Đảng bộ. Vừa qua đã được Bộ Chính trị chỉ đạo giải quyết xong.

 

III/ NGUYÊN NHÂN:

 

1- Nguyên nhân của thành tựu:

 

- Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta đoàn kết, nhất trí, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách; nhân dân tỉnh ta lao động cần cù, sáng tạo; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của các cấp uỷ đảng và những tiến bộ trong quản lý điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp; sự phối hợp hoạt động tích cực của Mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân trong việc động viên khối đoàn kết toàn dân.

 

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của Trung ương Đảng, Chính phủ và sự giúp đỡ có hiệu quả của các bộ, ngành, đoàn thể, Trung ương; sự hợp tác giúp đỡ của một số tỉnh, thành phố trong nước.

 

- Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và tình hình thực tế địa phương, đã kịp thời đề ra các nghị quyết chuyên đề, các chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Trung ương, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện, kịp thời phát hiện, xử lý tồn tại và những vấn đề mới phát sinh.

 

- Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, tỉnh đã tập trung đầu tư cho việc xây dựng các cơ chế, chính sách để thu hút nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển.

- Việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quan tâm nhiều hơn; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được phát huy. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên giữ được bản lĩnh chính trị vững vàng, phát huy tính tiền phong gương mẫu.

 

2- Nguyên nhân của yếu kém:

 

Ngoài những nguyên nhân khách quan như: Thiên tai, dịch bệnh, giá cả không ổn định, tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp… còn có những nguyên nhân chủ quan sau:

 

- Việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở một số ít cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp chưa nghiêm, công tác quản lý, điều hành thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp.

 

- Việc lựa chọn mục tiêu đầu tư và đầu tư thiếu tập trung, thiếu đồng bộ. Công tác qui hoạch, điều chỉnh qui hoạch và quản lý nhà nước về qui hoạch và trên một số lĩnh vực còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

 

- Chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp trên một số mặt còn lúng túng, chưa thật sự năng động, sáng tạo trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chưa dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm; năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế.

 

- Trong lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo điều hành của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy tuy có nhiều cố gắng thực hiện theo quy chế làm việc nhưng còn có mặt hạn chế; đấu tranh phê và tự phê ở một số đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy còn thiếu chân thành, thẳng thắn.

 

-  Hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở một số địa phương yếu. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân chưa được phát huy đúng mức. Qui chế dân chủ cơ sở một số nơi chưa được phát huy đầy đủ.

 

- Tổ chức bộ máy của một số địa phương, cơ quan, đơn vị yếu, nhất là trong khâu tổ chức thực hiện. Công tác bố trí cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở một số sở, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nhưng chậm được thay thế.

 

- Một bộ phận cán bộ, đảng viên yếu kém cả về phẩm chất và năng lực. Tính tiên phong, gương mẫu; sự gắn bó, tâm huyết vì dân và sự nghiệp cách mạng; năng lực đảm đương nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn thấp.

 

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

 

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nền kinh tế tỉnh đã có bước phát triển với tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không gian kinh tế được mở rộng, bước đầu hình thành mối liên kết hợp tác phát triển giữa tỉnh ta với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ-Tây Nguyên và các tỉnh, thành phố trong nước theo tinh thần Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển. Lĩnh vực văn hoá-xã hội khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân miền núi ngày càng cải thiện. Quốc phòng và an ninh được tăng cường. Hoạt động của chính quyền các cấp có nhiều đổi mới, tiến bộ; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Công tác xây dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt kết quả tích cực.

 

Mặc dù nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng do điểm xuất phát thấp nên hiện tại Phú Yên vẫn chưa thoát khỏi tỉnh nghèo. Hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu, chưa có những doanh nghiệp chủ lực của nền kinh tế. Nông nghiệp nói chung có phát triển và chuyển dịch cơ cấu đúng hướng nhưng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi còn thấp, bệnh dịch tôm chưa có giải pháp khắc phục. Du lịch chưa phát triển thành một ngành kinh doanh có vị trí trong cơ cấu dịch vụ. Nguồn thu ngân sách từ sản xuất còn thấp, thu chưa đủ chi. Môi trường đầu tư được cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn, chưa có sức thu hút nhà đầu tư mạnh. Trên các lĩnh vực văn hóa xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể còn một số mặt hạn chế, yếu kém cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

 

IV/ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

 

Từ những việc làm được, chưa được trong nhiệm kỳ qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm:

 

-  Một là, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là trong cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy và lãnh đạo chủ chốt; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương là nhân tố quan trọng bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, toàn dân vượt qua khó khăn, thử thách để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị.

 

- Hai là, phải gần dân, sát dân, hiểu dân để làm tốt công tác vận động quần chúng; kịp thời nắm bắt và giải quyết lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; có biện pháp phù hợp để bồi dưỡng sức dân.

 

- Ba là, phải biết khơi dậy tiềm năng, phát huy tốt nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài nhằm tạo ra thế và lực mới cho phát triển.

 

- Bốn là, trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết phải xác định nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, có chương trình hành động cụ thể với các biện pháp phù hợp, có tính đột phá để tạo bước phát triển đồng bộ. Chú trọng công tác nắm tình hình, thu thập và xử lý thông tin, thường xuyên đôn đốc, tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết, phổ biến nhân điển hình tiên tiến.

 

- Năm là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Chú trọng sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự;  phát triển kinh tế phải đi đôi với quan tâm phát triển văn hoá, bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí, chăm lo giải quyết thoả đáng các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo vệ cảnh quan môi trường, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.

 

- Sáu là, chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư.

 

PHẦN THỨ HAI

 

MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

 

Thành tựu 5 năm 2001-2005 và gần 20 năm đổi mới (1986-2005) là tiền đề để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân tỉnh ta tiếp tục nỗ lực phấn đấu đẩy nhanh hơn nhịp độ phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, nhìn tổng thể trong quá trình phát triển, bên cạnh một số thuận lợi, tỉnh ta còn rất nhiều khó khăn, điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh còn thấp; địa bàn tỉnh không nằm trong vùng trọng điểm kinh tế miền Trung, cơ sở hạ tầng tuy có cải thiện nhưng còn khó khăn; hàng năm thiên tai thường xảy ra gây thiệt hại lớn…

 

Việc nước ta hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cho ta nhiều thời cơ, vận hội mới, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức, nhất là sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng. Các thế lực thù địch quốc tế và bọn phản động, cực đoan trong nước sẽ không ngừng đẩy mạnh các hoạt động chống phá, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, tạo cớ can thiệp nhằm gây mất ổn định chính trị xã hội. Đó là những vấn đề cần chú ý trong quá trình triển khai kế hoạch 5 năm 2006-2010.

 

I- MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TỔNG QUÁT:

 

5 năm đến (2006-2010) là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX của Đảng đề ra.

 

Mục tiêu và phương hướng tổng quát của Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta trong 5 năm 2006-2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh toàn dân, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, khai thác tốt tiềm năng và lợi thế để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, đưa tỉnh Phú Yên thoát khỏi tỉnh nghèo, phấn đấu đạt mức trung bình cả nước.

 

II- CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA THỜI KỲ 2006-2010:

 

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 là 13%, trong đó, khu vực nông-lâm-ngư nghiệp tăng bình quân 3,9%/năm, công nghiệp-xây dựng tăng 19%/năm, khu vực các ngành dịch vụ tăng 13,6%/năm.

 

Đến năm 2010, tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư chiếm 21,5%, công nghiệp - xây dựng 41%, dịch vụ 37,5% trong cơ cấu GDP.

 

- GDP bình quân đầu người vào năm 2010: trên 10 triệu đồng.

 

- Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng địa phương tăng bình quân 18%/năm, đến năm 2010 đạt 130 triệu USD.

 

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006 - 2010: 17.270 tỷ đồng         

 

- Thu ngân sách trên địa bàn đến năm 2010: 1.100 tỷ đồng.

 

- Giải quyết việc làm 25.000 lao động/năm.

 

- Đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 40%.

 

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 9% vào năm 2010 (theo tiêu chí mới).

 

- Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm: 1,26%.

 

- Đến năm 2010 có 75% số hộ dân nông thôn, 95% số hộ dân đô thị được sử dụng nước sạch; quản lý và xử lý 100% lượng chất thải công nghiệp nguy hại và chất thải y tế.

 

- Phát triển đảng viên mới hàng năm tăng từ 6-7% so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ.

 

III- NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU:

 

1- Phát triển kinh tế:

 

Để đạt được mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa tỉnh Phú Yên thoát khỏi tỉnh nghèo, vươn lên nhóm trung bình của cả nước, cần chuyển trọng tâm nền kinh tế sang công nghiệp, dịch vụ; nông nghiệp giữ đà phát triển toàn diện, đi vào chiều sâu thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi đạt trình độ tiên tiến trên diện rộng.

 

1.1- Phát triển kinh tế-xã hội vùng lãnh thổ:

 

- Vùng biển và ven biển: Là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế nhất cần tập trung đầu tư phát triển toàn diện, trong đó chú ý 4 ngành có thế mạnh là thuỷ sản (cả nuôi trồng, đánh bắt), công nghiệp, du lịch - dịch vụ, vận tải. Phối hợp với tỉnh Khánh Hoà để triển khai xây dựng khu kinh tế Vân Phong (Nam Phú Yên -  Bắc Khánh Hoà) nhằm tạo động lực để đẩy mạnh sự phát triển chung của tỉnh. Xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như: Giao thông, cấp nước, bến bãi, cảng, khu công nghiệp… đồng bộ, hiện đại; đồng thời tôn tạo các di tích lịch sử, thắng cảnh đất liền, hải đảo, đầm, vịnh phục vụ tham quan, du lịch. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ du lịch; ngư nghiệp gắn với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo.

 

- Vùng đồng bằng: Xây dựng các vùng chuyên canh, thâm canh cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng, đảm bảo tiêu dùng và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy công nghiệp chế biến. Tạo điều kiện để xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến, điểm công nghiệp tập trung, phát triển làng nghề, các loại hình thương mại-dịch vụ để giải quyết việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn. Phát triển du lịch gắn với việc đầu tư tôn tạo, khai thác các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và các làng nghề truyền thống.

 

- Vùng miền núi: Xây dựng và thực hiện hiệu quả chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội miền núi giai đoạn 2006-2010; tiếp tục huy động nhiều nguồn vốn để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế-xã hội khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn phát triển vốn rừng với định canh, định cư. Đẩy mạnh công tác giao đất, khoán rừng kết hợp việc triển khai các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp, các loại cây ăn quả, phát triển chăn nuôi gia súc. Nhân rộng các mô hình sản xuất nông-lâm kết hợp, vườn đồi, vườn rừng với quy mô thích hợp. Phối hợp, tạo điều kiện xây dựng các nhà máy thuỷ điện, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, tiểu thủ công nghiệp; triển khai tốt chương trình nước sạch nông thôn. Gắn phát triển kinh tế-xã hội với đảm bảo quốc phòng an ninh khu vực miền núi.

 

1.2- Hướng phát triển công nghiệp trong 5 năm tới tập trung các mục tiêu:

 

- Khuyến khích các doanh nghiệp hiện có đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm sức cạnh tranh trong môi trường mới Việt Nam gia nhập AFTA và WTO có hiệu lực. Thúc đẩy các nhà máy đầu tư dở dang và các dự án đang triển khai sớm hoàn thành đưa vào khai thác (Thủy điện Sông Ba Hạ, EaKrông H­’năng, Đá Đen, nhà máy lắp ráp ô tô, nhà máy bia mở rộng, nhà máy lọc dầu…). Tăng cường quảng bá thu hút đầu tư để lấp đầy 3 khu công nghiệp: Hòa Hiệp 1, An Phú và Đông Bắc Sông Cầu. Tiếp tục tăng cường mở rộng công tác khuyến công để phát triển mạnh ngành nghề, hình thành nhiều làng nghề ở nông thôn, các cụm điểm công nghiệp ở các địa phương nhằm giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ. Hướng phát triển một số ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp như sau:

 

Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và gia công may mặc, giày dép là những lĩnh vực cần được khuyến khích nhằm giải quyết việc làm cho người lao động.

 

Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, cần khuyến khích đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị để nâng sức cạnh tranh của sản phẩm.

 

Đối với các xí nghiệp mới có thiết bị công nghệ hiện đại nên hoạt đông theo mô hình liên kết với các xí nghiệp trong vùng tổ chức gia công sử dụng lao động tại các hợp tác xã nông thôn.

 

Tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện để  nhà máy lọc dầu, nhà máy lắp ráp ô tô JRD sớm đi vào hoạt động; nhà máy bia Sài Gòn, nhà máy dược phẩm...đầu tư mở rộng, nâng công suất nhà máy.

 

Chú trọng phát triển làng nghề ở nông thôn, ven biển để giải quyết việc làm cho người lao động.

 

Rút kinh nghiệm để cải tiến chính sách khuyến công, chính sách hỗ trợ quảng bá thương hiệu, tiếp thị. Tăng cường các hoạt động quảng bá đầu tư thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới đầu tư vào 2 ngành công nghiệp và du lịch.

 

1.3- Nâng cao hiệu quả các hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch; đẩy mạnh xuất khẩu:

 

- Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh, thúc đẩy  phát triển mạnh thị trường từ thành thị đến nông thôn và miền núi, bảo đảm cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu và mặt hàng chính sách. Tiến hành quy hoạch, đầu tư phát triển các loại hình chợ, siêu thị, trung tâm thương mại. Ưu tiên đầu tư nâng cấp chợ trung tâm các huyện lỵ. Hoàn thành chợ Tuy Hoà, siêu thị Phú Yên. Quy hoạch mạng lưới cung ứng xăng dầu, hệ thống cửa hàng phục vụ chính sách. Tổ chức tốt mạng lưới thông tin thị trường phục vụ các hoạt động kinh doanh.

 

- Tiếp tục củng cố và mở rộng thị trường xuất - nhập khẩu. Đầu tư chế biến xuất khẩu các mặt hàng địa phương có thế mạnh như: Thuỷ-hải sản, nông sản thực phẩm, khoáng sản, nhóm hàng công nghiệp nhẹ, thủ công mỹ nghệ; hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu hàng địa phương 130 triệu USD, giá trị xuất khẩu bình quân đầu người 142 USD.

 

- Phát triển mạnh du lịch, lấy du lịch làm động lực thúc đẩy các ngành dịch vụ, ngành nghề thủ công mỹ nghệ và các ngành khác. Từng bước xây dựng ngành du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; phát triển các sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đặc trưng, riêng có của địa phương. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. Tăng cường liên kết với các tỉnh, thành phố và các đối tác ngoài nước để gọi vốn đầu tư. Thúc đẩy đầu tư các cơ sở kinh doanh du lịch, đặc biệt chú trọng xây dựng và đưa vào khai thác cụm du lịch phức hợp khu vực Long Thuỷ - Núi Thơm - Bãi Xép - Hòn Chùa - đầm Ô Loan- gành Đá Đĩa và một số khu du lịch khác.

 

Phát triển các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch (nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tắm biển, thể thao sinh thái, tham quan di tích lịch sử, thắng cảnh…). Cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá thủ tục đi lại, cư trú cho khách du lịch.

 

- Phát triển các loại hình dịch vụ (vận tải, tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm, tư vấn…) đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường hiện đại.

 

Phấn đấu mức tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dịch vụ 13,6%, chiếm 37,5% GDP và thu hút từ 25-28% lực lượng lao động vào năm 2010.

 

1.4- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn:

 

- Ổn định diện tích lúa 2 vụ vùng đồng bằng, đồng thời mở rộng diện tích lúa nước khu vực miền núi; chú trọng việc lựa chọn bộ giống mới phù hợp, tổ chức thâm canh, tăng năng suất, xây dựng vùng lúa trọng điểm chất lượng cao. Ổn định diện tích và đầu tư thâm canh cây mía, cây sắn để đáp ứng nhu cầu các nhà máy công nghiệp chế biến, đồng thời phát triển một số loại cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực, thực phẩm có giá trị kinh tế cao phù hợp trên từng địa bàn như: Cao su, điều, bông vải, bắp, dừa và các loại cây thực phẩm. Xây dựng vành đai cây thực phẩm tại thành phố Tuy Hoà và các khu công nghiệp tập trung. Nhân rộng mô hình sản xuất 50 triệu đồng/ha.

 

Phát triển chăn nuôi, tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chú trọng chất lượng, hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2010, tổng đàn trâu có 2.840 con, (tăng bình quân 0,9%/năm), đàn bò 239,5 nghìn con (tăng bình quân 3,5%/năm, trong đó tỷ lệ bò lai chiếm 50%), đàn heo 231 nghìn con (tăng bình quân 3,2%/năm) đàn gia cầm 2,2 triệu con (tăng bình quân 3%/năm). Xây dựng đồng cỏ thâm canh ở khu vực bãi bồi ven sông Đà Rằng và một số vùng có điều kiện để phát triển chăn nuôi. Nhân rộng mô hình trồng cỏ, nuôi bò thịt trong khu vực nông thôn, chú trọng khâu thú y, phòng trừ dịch bệnh. Xây dựng chuồng trại và dự trữ thức ăn cho đàn gia súc.

 

- Về lâm nghiệp: Đẩy mạnh công tác trồng rừng phòng hộ kết hợp với khoanh nuôi, phục hồi, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn. Chú ý việc trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc, rừng cảnh quan ven biển, các khu du lịch, nghỉ dưỡng. Phấn đấu nâng tỷ lệ che phủ rừng lên trên 45% năm 2010.

 

- Về thuỷ sản, phát triển cân đối các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá; khuyến khích phát triển ngành nuôi trồng và đánh bắt xa bờ. Phấn đấu đến năm 2010, đạt sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 8.000 tấn, sản lượng khai thác thuỷ sản 34.000 tấn.

 

Đa dạng đối tượng nuôi với qui mô và hình thức nuôi phù hợp đối với từng vùng, đảm bảo hiệu quả, bền vững; xây dựng hệ thống thuỷ lợi phục vụ các vùng nuôi, chú trọng vùng trọng điểm hạ lưu sông Bàn Thạch; tổ chức nuôi thâm canh, bán thâm canh, nuôi sinh thái gắn với phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Tập trung đầu tư nghề nuôi trồng thuỷ sản biển và thuỷ sản nước ngọt với một số đối tượng chủ lực, có thị trường ổn định.

 

Khuyến khích đầu tư đóng mới tàu thuyền công suất lớn đánh bắt xa bờ, từng bước hiện đại hoá trang bị phương tiện nghề cá.

 

Nâng cao năng lực và chất lượng chế biến thuỷ hải sản, phát huy nghề chế biến thuỷ sản truyền thống, đa dạng hoá các mặt hàng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao, chú trọng mẫu mã nhãn hiệu, bao bì có khả năng tham gia thị trường nội địa và xuất khẩu. Xây dựng thương hiệu các mặt hàng chủ lực như: Cá ngừ đại dương, tôm hùm, cá cơm, nước mắm…

 

1.5- Tài chính tín dụng:

 

- Đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu xây dựng một số “doanh nghiệp chủ lực để có số thu lớn”, tạo điều kiện để mở rộng và khai thác các nguồn thu, phấn đấu đến năm 2010 thu ngân sách địa phương đạt 1.100 tỷ đồng; tổng thu ngân sách giai đoạn 2006-2010 tăng hơn 2 lần giai đoạn 2001-2005. Bảo đảm tốc độ tăng chi ngân sách hàng năm bình quân 13%; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu chi ngân sách địa phương theo hướng tăng dần tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các khoản chi ngân sách, không để lãng phí. Thường xuyên thực hiện công tác thanh kiểm tra tài chính đối với ngân sách xã, các đơn vị sản xuất kinh doanh; chống trốn thuế, chiếm dụng ngân sách. Xây dựng chính sách tài chính để huy động vốn cho đầu tư phát triển.

 

- Không ngừng cải tiến các hoạt động ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, khai thác nhiều nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp hộ cá thể phát triển sản xuất. Khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA, FDI, NGO và vốn huy động nhân dân để đầu tư phát triển. Tăng mức dư nợ trung, dài hạn cho đầu tư phát triển; kiểm soát nợ quá hạn, nâng cao chất lượng thanh toán.

 

1.6- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển hệ thống đô thị tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhất.

 

Tập trung ưu tiên xây dựng phát triển hạ tầng, chủ yếu là giao thông, thủy lợi, coi đây là tiền đề cho sự phát triển, từng bước hình thành mạng hạ tầng hoàn chỉnh.

 

Chú trọng qui hoạch, rà soát bổ sung qui hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bổ sung các qui hoạch ngành, đặc biệt chú trọng dự án qui hoạch phát triển thành phố Tuy Hòa do nhà tư vấn Singapore đang thực hiện. Chú trọng chất lượng các qui hoạch gắn với chiến lược phát triển và các kế hoạch kinh tế-xã hội. Gắn qui hoạch địa phương với qui hoạch vùng, để mở rộng không gian phát triển và sự gắn kết bền vững của kinh tế địa phương với kinh tế vùng lãnh thổ và quốc gia.

 

- Về giao thông: Phối hợp đầu tư nâng cấp, xây dựng mạng lưới giao thông đồng bộ, từng bước hiện đại, lấy QL 1A, QL 25 và các tỉnh lộ làm trục giao thông quan trọng. Tập trung xây dựng cầu Hùng Vương và tuyến đường nối thành phố Tuy Hoà – khu công nghiệp Hoà Hiệp - cảng Vũng Rô; tuyến giao thông ven biển Bắc thành phố Tuy Hoà đi Gành Đỏ; trục dọc miền Tây nối Bình Định, Phú Yên, Đắc Lắc; phối hợp cùng tỉnh Đắc Lắc đầu tư xây dựng hoàn chỉnh tuyến ĐT 645 đi Buôn Hồ và đề nghị chuyển thành Quốc lộ. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ và giao thông nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 có 70 - 80% chiều dài tuyến đường huyện được nhựa hoá, bê tông hoá; bình quân mỗi xã có thêm 1 km đường được nhựa hoá hoặc bê tông/năm.

 

Xây dựng hoàn chỉnh Cảng vận tải hàng hoá Vũng Rô. Phối hợp với bộ, ngành Trung ương thúc đẩy dự án xây dựng hầm đường bộ Đèo Cả.

 

Đề nghị Trung ương xây dựng dự án tuyến đường sắt và đường ống dẫn nhiên liệu từ Phú Yên lên Tây Nguyên, xây dựng mới ga hàng không và tăng tần suất bay Sân bay Tuy Hoà, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong khu vực.

 

- Về thuỷ lợi, khai thác, duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi hiện có và các công trình xây dựng mới, đảm bảo đủ nước tưới trên 80% diện tích cây ngắn ngày vào sau năm 2010. Phối hợp đẩy nhanh tiến độ xây dựng hoàn thành hồ Đồng Tròn, dự án thuỷ lợi sau Thuỷ điện Sông Hinh…; phối hợp xây dựng hồ chứa nước Mỹ Lâm, hồ Lỗ Chài, hồ Nhiêu Hậu, hồ La Bách... và một số công trình thuỷ lợi nhỏ khác. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh hệ thống đê kè hạ lưu sông Đà Rằng, sông Cái... và triển khai hiệu quả chương trình kiên cố hoá kênh mương.

 

Đầu tư xây dựng mới và nâng công suất các nhà máy nước; nghiên cứu xây dựng nhà máy nước cung cấp cho Khu công nghiệp Hoà Hiệp, khu lọc dầu, cảng Vũng Rô và khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hoà).

 

- Nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính viễn thông; mở rộng, phát triển các loại hình dịch vụ bưu chính viễn thông. Phấn đấu đến năm 2010 có từ 18 - 20 máy điện thoại/100 dân, 100% số Bưu điện văn hoá xã có mạng Internet. Doanh thu bưu chính viễn thông giai đoạn năm 2006-2010 tăng bình quân từ 15-17%/năm.

 

- Tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thành phố Tuy Hoà theo quy hoạch, đặc biệt khu đô thị Nam thành phố Tuy Hoà, các thị trấn, thị tứ, nhất là các huyện mới chia tách. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch đưa huyện Sông Cầu lên thị xã.

 

1.7- Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế:

 

- Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp nhà nước, hoàn thành việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước vào cuối năm 2006. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.

 

- Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, tạo chuyển biến rõ nét đối với kinh tế tập thể trên tất cả các mặt: Quan hệ sở hữu, phương thức quản lý và phân phối. Phát triển các loại hình hợp tác mới trong các lĩnh vực kinh tế trang trại, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến sau thu hoạch, các ngành nghề truyền thống…ở một số nơi có nhu cầu và điều kiện. Xây dựng cơ chế hỗ trợ vốn, mặt bằng sản xuất, đào tạo cán bộ kỹ thuật, quản lý cho các hợp tác xã.

 

- Tạo điều kiện phát triển mạnh kinh tế tư nhân, biểu dương người sản xuất kinh doanh giỏi, chấp hành tốt pháp luật; xoá bỏ mọi trở ngại, rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.

 

- Khuyến khích phát triển mạnh các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu; thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư ở trong và ngoài nước.

 

2- Văn hoá - xã hội:

 

2.1- Giáo dục đào tạo: Phát triển hợp lý, vững chắc quy mô giáo dục đào tạo gắn với việc đầu tư cơ sở vật chất, phát triển đội ngũ giáo viên và ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương xã hội hoá giáo dục, đa dạng các loại hình đào tạo. Phấn đấu đến năm 2010, 30% số trường mầm non, 70% số trường tiểu học, 50% số trường trung học cơ sở, trung học phổ thông trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2006 (sớm hơn kế hoạch 1 năm) và phấn đấu đến năm 2012 có 4/9 huyện, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học phổ thông.

 

Tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo tại các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn để đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng. Thành lập Trường đại học Phú Yên phát triển theo hướng đa ngành, đa cấp; củng cố Trường Trung học Y tế tạo tiền đề để nâng cấp thành Khoa Y dược thuộc Trường Đại học Phú Yên. Tạo điều kiện hỗ trợ Trường Cao đẳng Xây dựng số 3 nâng cấp thành Trường đại học Xây dựng.

 

2.2- Khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường:

 

- Nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sạch, bảo vệ môi trường, điện khí hoá, cơ giới hoá vào sản xuất. Phát huy tiềm lực nội sinh, khai thác kịp thời các thời cơ và xu thế thị trường nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.

 

- Thu hút giới trí thức và các ngành tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng các đội ngũ trí thức trẻ tình nguyện về nông thôn.

 

- Đẩy mạnh phổ cập tin học, kết nối rộng rãi mạng Internet và các mạng nội bộ khác.

 

- Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế-xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường. Quản lý, bảo tồn và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; quản lý nước, chất thải, tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở các khu vực đô thị, khu công nghiệp tập trung.

 

2.3- Giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và các vấn đề xã hội:

 

- Tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường thu hút vốn các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh đầu tư sản xuất kinh doanh vào tỉnh nhằm tạo việc làm, thu nhập, nâng cao đời sống người lao động, xoá đói giảm nghèo. Đẩy mạnh phong trào thanh niên lập nghiệp, các chương trình phát triển kinh tế của các đoàn thể, các hoạt động dịch vụ việc làm và xuất khẩu lao động. Phấn đấu giải quyết việc làm 25.000 lao động/năm; chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông-lâm-ngư nghiệp xuống còn 56% vào năm 2010.

 

- Củng cố, nâng cao chất lượng và đẩy mạnh công tác đào tạo nghề tại các trường dạy nghề, phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 40%.

 

- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo; tạo điều kiện về vốn, môi trường, kinh nghiệm, thông tin thị trường cho người lao động thông qua các chương trình khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Nâng cao vai trò các đoàn thể trong công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo.

 

- Tiếp tục chăm lo đời sống các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, dân cư các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng dần mức sống các hộ thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới còn 9%; cơ bản xoá hết nhà ở tạm.

 

2.4- Y tế, dân số và phát triển:

 

- Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế quốc gia về phòng chống dịch bệnh. Nâng cao chất lượng khám, điều trị ở các tuyến gắn với việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất và vận động cán bộ ngành Y tế thực hiện tốt y đức; tăng cường quản lý hành nghề y dược tư nhân; thực hiện xã hội hoá công tác y tế. Phấn đấu đến năm 2010, 9/9 huyện, thành phố có trung tâm y tế được nâng cấp hoặc xây dựng mới phù hợp với quy mô giường bệnh được quy hoạch. Hoàn thành, đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh và Bệnh viện phía Bắc tỉnh. Hỗ trợ tích cực để triển khai bệnh viện Chợ Rẫy với Phú Yên. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Chăm lo công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 16%.

 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện Pháp lệnh dân số và các biện pháp kế hoạch hoá gia đình, phấn đấu đạt mức giảm sinh bình quân hàng năm 0,5%o, tốc độ tăng dân số bình quân 1,26%/năm, nhanh chóng đạt mức sinh thay thế, góp phần cùng cả nước tiến tới ổn định qui mô dân số vào giữa thế kỷ XXI.

 

2.5- Văn hoá - thể dục thể thao:

 

- Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, huy động nhiều nguồn lực đầu tư phát triển văn hoá. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực văn hoá, dịch vụ văn hoá, phát huy những nhân tố tích cực, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong các hoạt động dịch vụ văn hoá.

 

- Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, phấn đấu đến năm 2010 có 85% số hộ gia đình và 70% số thôn, buôn, khu phố đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá và đơn vị văn hoá.

 

- Chú trọng việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá, nghệ thuật các dân tộc; có kế hoạch đầu tư tôn tạo, khai thác các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cấp quốc gia trên địa bàn. Đầu tư xây dựng và hoàn thành đưa vào sử dụng Nhà Bảo tàng tỉnh; tôn tạo khu di tích Nhà thờ Bác Hồ và các cơ quan của tỉnh trong kháng chiến và đề nghị Bộ Văn hoá công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia.

 

- Phát triển, nâng cao chất lượng nội dung chương trình, đầu tư cơ sở vật chất gắn với việc quản lý tốt các phương tiện thông tin đại chúng. Phấn đấu đến năm 2010 cơ bản phủ sóng phát thanh, truyền hình 100% địa bàn dân cư; xây dựng và tiếp phát các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; ra Báo Phú Yên hàng ngày và đưa lên mạng Internet.

 

- Nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng, đầu tư thể dục thể thao trường học, đồng thời xây dựng một số môn thể thao thành tích cao có khả năng phát triển. Phấn đấu đến năm 2010 có 20% dân số luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.

 

3- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:

 

- Tăng cường công tác giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao ý thức cảnh giác, kịp thời đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và các phần tử xấu lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.

 

- Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh cơ bản, liên hoàn, vững chắc, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, các huyện miền núi và khu vực biển đảo. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tiêu chuẩn quy định, chú ý xây dựng lực lượng dự bị động viên; thực hiện đạt chỉ tiêu và chất lượng tuyển quân hàng năm. Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục quốc phòng và an ninh; nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cho cán bộ, nhân dân, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp. Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, đào tạo xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.

 

- Tăng cường công tác quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh hải, an ninh trật tự khu vực biên giới, đấu tranh chống các hoạt động vi phạm chủ quyền. Tổ chức tốt lực lượng, phương tiện khai thác thuỷ sản thành tổ, đội để hỗ trợ trong quá trình khai thác và bảo vệ chủ quyền lãnh hải. Xây dựng lực lượng bộ đội biên phòng vững mạnh toàn diện.

 

- Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, nhất là các tội phạm có tổ chức, ma tuý, mại dâm. Tiếp tục triển khai có kết quả các giải pháp kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông trên địa bàn. Xây dựng lực lượng công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Nâng cao chất lượng chính trị, năng lực chiến đấu của lực lượng công an cơ sở.

 

- Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng Công an, Quân sự, Biên phòng trong phân tích đánh giá, dự báo tình hình, tham mưu cho cấp uỷ đảng, chính quyền xử lý đúng đắn, kịp thời, hiệu quả các vấn đề về an ninh trật tự trên địa bàn.

 

- Nâng cao hiệu quả các hoạt động liên tịch giữa Mặt trận, đoàn thể với các ngành chức năng trong công tác bảo vệ an ninh trật tự; củng cố các tổ chức quần chúng phối hợp tham gia công tác an ninh trật tự ở cơ sở. Tăng cường công tác hoà giải ở cơ sở, kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân, không để xảy ra điểm nóng.

 

4- Công tác nội chính:

 

- Tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan tư pháp, nhất là chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, coi đây là khâu đột phá. Chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ bảo vệ pháp luật trong sạch, đủ năng lực, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

 

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và thực thi pháp luật trong nhân dân. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm, mọi hành vi vi phạm phải được xử lý nghiêm theo pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

 

5- Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị:

 

5.1- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng chính quyền vững mạnh:

 

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng ta về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nhiệm vụ của từng cơ quan đơn vị theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Duy trì và thực hiện tốt công tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri, chỉ đạo giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri. Kiên quyết xử lý các hành vi mất dân chủ, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời có biện pháp xử lý các hành vi lợi dụng dân chủ để khiếu nại tố cáo sai sự thật.

 

- Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc quyết định và ban hành chủ trương chính sách được phân cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ quan địa phương. Phát huy vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và giám sát việc tuân thủ pháp luật.

 

- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” ở các cấp chính quyền; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng ngành, từng cấp.

 

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực; chú trọng công tác quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ công chức.

 

5.2- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân:

 

- Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân, trước hết là tổ chức quán triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, đặc biệt là thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo. Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khơi dậy và động viên nhân dân tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị địa phương.

 

- Thực hiện tốt chủ trương của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân; chăm lo công tác hội nông dân, phụ nữ, thanh niên, công đoàn, cựu chiến binh, người cao tuổi, chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài.

 

- Tiếp tục tạo các điều kiện thuận lợi để Mặt  trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể nhân dân làm tốt việc vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị địa phương.

 

- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo hướng sát dân, thực hiện tốt hơn chức năng giám sát và bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân.

 

5.3- Xây dựng Đảng:

 

Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng bộ.

 

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Tổ chức tốt việc học tập quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực hiện tốt công tác học tập lý luận chính trị trong Đảng; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh. Tổ chức tốt việc nắm và dự báo tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống các khuynh hướng tư tưởng sai trái, cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa, tham ô, tư lợi, cơ hội; tạo sự đồng thuận của xã hội trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị địa phương.

 

- Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí. Thường xuyên tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình chân thành, nghiêm túc, đồng thời tạo điều kiện để nhân dân giám sát phê bình, góp ý. Tiếp tục thực hiện nghiêm chủ trương kê khai nhà, đất, cơ sở sản xuất kinh doanh của cán bộ, đảng viên. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trên các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Xem xét, xử lý nghiêm theo pháp luật và kỷ luật Đảng đối với những cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực.

 

- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Thực hiện tốt việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, phấn đấu đến hết năm 2006 tất cả các thôn, buôn, khu phố, các trường tiểu học đều có chi bộ đảng; phát triển đảng viên mới hàng năm tăng từ 6-7% so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ.

 

- Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đồng bộ ở các cấp, các ngành, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Thực hiện đúng qui định của Trung ương về phân công, phân cấp trong lãnh đạo và quản lý cán bộ. Đảm bảo thực hiện tốt việc chuẩn hoá cán bộ về trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ.

 

- Phát huy dân chủ trong Đảng, đồng thời giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành và Ban Thường vụ cấp uỷ. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

 

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao trình độ, năng lực cầm quyền của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy hiệu lực quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo qui định pháp luật.

 

Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng. Hàng năm các cấp uỷ xây dựng chương trình kế hoạch công tác kiểm tra và thực hiện theo chương trình kế hoạch, tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức và cá nhân đảng viên, kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và qui chế làm việc, về đoàn kết nội bộ, về đạo đức phẩm chất và lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện các nghị quyết.

 

Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, trước hết là bảo vệ cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng; chống các tư tưởng sai trái, thù địch cá nhân, bè phái, cơ hội chính trị; quản lý tốt đội ngũ cán bộ đảng viên.

 

IV- CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:

 

1- Về quy hoạch:

 

- Lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa phương đảm bảo sự liên kết, phối hợp giữa các ngành và địa phương; xác định các trọng điểm và bước đi thích hợp từng thời kỳ, đồng thời nâng cao chất lượng các quy hoạch phát triển. Qui hoạch việc sử dụng tài nguyên, đất đai khoa học, tiết kiệm.

 

 

- Tập trung chỉ đạo đầu tư quy hoạch đô thị và vùng phụ cận; quy hoạch và xây dựng khu đô thị Nam thành phố Tuy Hoà, các khu dân cư và dịch vụ mới phía Bắc và phía Tây theo hướng phấn đấu lên đô thị loại 2. Hoàn chỉnh quy hoạch huyện Sông Cầu thành thị xã năm 2010; huyện Đông Hoà thành 1 huyện hoặc thị xã công nghiệp. Quy hoạch mở rộng các thị trấn hiện có theo hướng hiện đại. Chú ý quy hoạch sử dụng đất, các khu tái định cư và các đầu mối giao thông quan trọng. Tổ chức công bố công khai quy hoạch.       

 

2- Giải pháp về vốn :

 

- Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Phấn đấu huy động với mức cao nhất các nguồn vốn trong nước, FDI, ODA và các tổ chức quốc tế.

 

- Tích cực tạo nguồn thu mới và thực hiện việc nuôi dưỡng các nguồn thu, chống thất thu tạo điều kiện tăng nhanh nguồn thu ngân sách.

 

- Khai thác nguồn vốn ngân sách đầu tư tập trung, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư qua Bộ, ngành Trung ương; vốn hỗ trợ có mục tiêu; vốn tín dụng Nhà nước và các chương trình mục tiêu;  vốn ODA... Tăng cường tích luỹ nguồn vốn nội địa, tạo đối trọng để thu hút và sử dụng FDI hiệu quả. Khai thác triệt để những lợi thế, tạo ra thế và lực để huy động nội lực và ngoại lực nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế -xã hội.

 

- Tiếp tục cải tiến và công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính; hoàn thiện và thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong, ngoài tỉnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời giúp nhà đầu tư sớm triển khai dự án. Thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ hỗ trợ đầu tư.

 

3- Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế:

 

Tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Phát huy các cơ chế chính sách đã ban hành, đồng thời  nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số chính sách đảm bảo phù hợp với tình hình mới. Hoàn thành việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong năm 2006 và tạo điều kiện các doanh nghiệp đã cổ phần hoá tổ chức hoạt động hiệu quả.  Củng cố, hỗ trợ các hợp tác xã về đào tạo, thông tin, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển; xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp ở các huyện miền núi. Khuyến khích phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động thành phần kinh tế tư nhân, cá thể. Thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại, nhân rộng các mô hình trang trại làm ăn có hiệu quả.

 

4- Về nhân lực:

 

- Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí và trang bị nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh đào tạo nghề, sắp xếp mạng lưới các trường, trung tâm  đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo các trường đại học, cao đẳng và THCN trên địa bàn.

 

- Thực hiện xã hội hoá  công tác đào tạo, tạo điều kiện các tổ chức xã hội,  doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng phương thức đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của các ngành và đơn vị kinh tế. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật từ các nguồn tài trợ, các dự án.

 

- Xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo tiêu chuẩn, đủ sức làm tốt chức năng quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực được giao.

 

- Nghiên cứu để xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách ưu đãi phù hợp để thu hút nhân tài và lao động kỹ thuật về làm việc lâu dài ở Phú Yên.

 

5-  Tăng cường liên kết, hợp tác với các đối tác để đẩy mạnh phát triển:

 

- Tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 39/NQ của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2020; tăng cường việc liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong nước và các đối tác ngoài nước để đẩy mạnh phát triển. 

 

- Thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư để thu hút vốn đầu tư phát triển. Tranh thủ sự hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương trong việc gọi vốn ODA.

 

6- Giải pháp về thị trường:

 

- Tăng cường công tác thông tin về kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là cơ chế, chính sách tạo điều kiện các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nắm chắc các chủ trương, mạnh dạn tham gia đầu tư vào tỉnh. Hình thành và phát triển các loại thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ…

 

- Đáp ứng tốt các nhu cầu thị trường trong nước, nhất là thị trường miền Trung, Tây Nguyên. Tích cực phát triển thị trường mới, thị trường nông thôn. Có biện pháp kích thích sức mua của nhân dân.

 

- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu, tìm kiếm thị trường mới. Đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, bao bì, hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu, thực hiện các bộ tiêu chuẩn quốc tế…đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

 

7- Về phát triển khoa học-công nghệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường:

 

- Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp và kết cấu hạ tầng, phổ cập tin học, kết nối mạng internet và các mạng nội bộ khác…

 

Tập trung chỉ đạo cải tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Hình thành và phát triển ngành sản xuất kinh doanh - dịch vụ một số sản phẩm công nghệ thế hệ mới, hàm lượng khoa học cao trong các lĩnh vực điện tử tin học, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học trên cơ sở liên doanh, liên kết, tổ chức sản xuất dịch vụ linh hoạt với các nhà sản xuất kinh doanh, các tập đoàn kinh tế trong nước và quốc tế. Phát triển các dịch vụ kỹ thuật như đo lường, thẩm định công nghệ, tăng cường công tác quản lý nhà nước về đăng ký sản phẩm, chống làm hàng giả. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý khoa học công nghệ.

 

- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế -xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường. Giảm đến mức thấp nhất tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa tới môi trường. Khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý rác thải theo công nghệ mới.

 

8- Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách, đồng thời đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và giáo dục pháp luật:

 

- Rà soát, bổ sung để không ngừng hoàn thiện các chính sách thu hút đầu tư của địa phương.

 

- Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Triển khai đồng bộ và có hiệu quả cơ chế  “một cửa” ở tất cả các cơ quan, đơn vị. Tăng cường công tác giáo dục pháp luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong việc thực thi pháp luật.

 

9- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước:

 

Thường xuyên phát động, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, hành động cách mạng tại địa phương, cơ sở. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực. Tiếp tục phát huy vai trò các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, tổ chức tuyên truyền về các nhân tố mới, điển hình tiên tiến.

 

10- Thường xuyên củng cố quốc phòng, đảm bảo giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh.

 

11- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, vận động Mặt trận và các hội, đoàn thể tiếp tục làm tốt việc vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các chương trình phát triển kinh tế xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị tại địa phương, cơ sở; thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức; chăm lo tốt hơn nữa công tác hội nông dân, phụ nữ, thanh niên, công đoàn, cựu chiến binh, người cao tuổi, chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài.

 

12-Xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng bộ, trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và từng tổ chức cơ sở đảng. Tập trung chỉ đạo việc cải tiến công tác phổ biến, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thực hiện tốt công tác học tập lý luận chính trị trong Đảng; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới.

 

*   *    *

 

Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân tỉnh ta đoàn kết, nhất trí, ra sức phấn đấu thực hiện với kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.

 

Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.

 

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek