Đấy là những ngày ác liệt của Hải Phòng năm 1966. Những tiết học cuối cùng của đời học sinh phổ thông chúng tôi thường diễn ra trong tiếng kẻng báo động máy bay và bị cắt ngang giữa chừng bởi phải chạy ào ra hầm trú ẩn ngay cạnh lớp. Giữa những ngày nóng bỏng như thế, giữa mùa hè cũng cực kỳ nóng bỏng, thầy giáo dạy Văn – nhà thơ Thúc Hà – lại còn “nung đỏ” chúng tôi bằng tác phẩm trường ca vừa được bổ sung vào giáo trình. Đó là trường ca “Bài ca chim Chơ-rao” của Thu Bồn. Trường ca với cốt truyện bi hùng, hơi thở hào sảng đã khơi cháy tâm hồn thanh xuân của chúng tôi. Có một cái gì cứ hừng hực ở bên trong khi đọc vang: “Ơi Tây Nguyên khảm một trời sao lộng lẫy – Ta đi theo tiếng hú thiêng liêng…”. Cái tên Thu Bồn đã ám ảnh vào tôi đầu tiên như thế.
Nghệ sĩ Lý Bạch Huệ, nhà thơ Thu Bồn, nhà thơ Giang Nam, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng (từ trái sang) trong ngày nhận Giải thưởng Nhà nước - Ảnh:VNN |
Ám ảnh ấy đã theo tôi vào giảng đường đại học. Chẳng nhớ bằng cách nào đó, tôi có tập thơ “Tre xanh” của Thu Bồn. Khi ấy qua bè bạn yêu thơ, tôi đã nghe phong thanh những giai thoại của người mang tên dòng sông quê hương Quảng
Rời giảng đường nhập ngũ, sau chiến dịch Quảng Trị, tôi bắt đầu nhiệm vụ xuyên Trường Sơn cùng đường dây. Tôi gặp Thu Bồn lần đầu tiên ở Trại sáng tác Quân khu V năm 1976. Khi ấy, anh vừa hoàn thành trường ca “Ba Dan khát”. Con người thực Thu Bồn giống như tôi vẫn hình dung. Anh vạm vỡ như một dũng sĩ Tây Nguyên với mái tóc bồng bềnh. Đứng bên anh có cảm giác đang đứng bên một quả núi sừng sững. Cảm giác ấy cứ còn mãi trong tôi ngay cả khi chúng tôi trở thành bạn vong niên, bạn “nhậu” của nhau. Khó có thể đoán định Thu Bồn làm việc vào lúc nào mà các trường ca, tiểu thuyết cứ ấn hành liên tục. Trong số các nhà thơ Việt
Những người yêu quý anh đều gọi đùa anh là “Thu Bùn”. Có lẽ anh cũng như nhiều nhà thơ đích thực đã sống như câu thơ của Whuytsman: “Tôi nguyện hóa thân làm bùn đất – Để mọc lên cây cỏ trên đời – Nếu bạn muốn tìm tôi – Hãy nhìn xuống đế giày của bạn”. Đi đâu, ở đâu, Thu Bồn cũng trở thành một hình ảnh khác thường giữa đời thường. Từ cách nói, cách đọc thơ, cách hát, cách uống rượu và cách khôi hài. Nụ cười Thu Bồn là nụ cười vừa hóm hỉnh, vừa bao dung. Mấy anh em cứ thế gắn bó qua nhiều năm tháng cực khổ sau chiến tranh. Có bữa uống trên nóc gác nhà tôi say quá, anh thiếp ngủ cho tới sáng, không biết đã bị chuột cắn vào trán. Chi tiết đó đã được Đào Thái Tôn tức cảnh thành thơ: “Anh ngon đến chuột cũng thèm”. Thu Bồn ngon thật, ngon mọi nhẽ. Anh hạnh phúc về sự ngon ấy, nhưng cũng đắng cay không kém vì chính điều “hơn người” đó.
Sau hết mọi dâng hiến, mọi vinh quang, Thu Bồn dừng lại sống cùng vợ là nghệ sĩ Lý Bạch Huệ ở bên suối Lồ Ô thuộc tỉnh Bình Dương, như điểm dừng của cuộc “xuyên Trường Sơn cuộc đời”. Ở tuổi ngoại lục tuần khi rời quân ngũ, Thu Bồn đã quyết “đội đá vá trời” tạo nên tư gia độc đáo của mình. Tư gia bên suối Lồ Ô đã được dựng lên từ sự nhẫn nại của người lính Thu Bồn sau khi cởi áo lính. Xong, hai vợ chồng lại nhọc nhằn bươn chải qua đủ nghề để mưu sinh trong đoạn cuối cuộc đời. Chất thi sĩ ngấm trong máu không cho anh thành công trong thương trường. Anh đã bị đột quỵ bởi cơn huyết áp cao trong chính chuyến đi trở lại Trường Sơn giữa năm 2001.
Khi tôi đến suối Lồ Ô thăm anh, nhìn dáng gầy ốm của anh, không thể nào ngờ chàng Tarzan trong giới cầm bút “chọc trời khuấy nước” một thời lại bỗng dưng nhỏ nhẹ và chậm chạp đến vậy. Nhìn anh đi lại khó nhọc và lẻ loi bên những bức tượng Tây Nguyên mà anh đã dày công sưu tầm với ý đồ tạo nên một bảo tàng của “Bài ca chim Chơ-rao”, vừa muốn ứa nước mắt, vừa thầm trách ông trời sao nỡ làm dở dang một khát vọng duy mỹ đến thế. Chứng bạo bệnh đã không cho anh cầm cự được lâu. Giữa tháng 6/2003, Thu Bồn đã tại mùa đi sau cơn đau dữ dằn ở tuổi 68. Mấy tháng sau, có dịp vào Sài Gòn, tôi và Thanh Thảo đã cùng vợ anh – nghệ sĩ cải lương Lý Bạch Huệ – tới thắp hương trước mộ anh ở nghĩa trang Thủ Đức, đọc trong nấc nghẹn những dòng tưởng biệt anh:
Thu Bồn sông là quê, Thu Bồn này là núi
Quả núi đi thong thả bên tôi
Xanh núi bay chim Chơrao
hát nói
Tóc bồng bềnh sương rượu đầm ướt lên môi
Quả núi lang thang phố xá đông vui
Lúc hóa đá lúc tràn trề bia bọt
Đời là cái quái gì mà cần sau chót
Bưng cả nhà sàn cao xuống dưới ghép ghế ngồi
Lũ hí hửng tớn tác kia ơi
Lấy vung làm giời đáy giếng làm cung điện
Ta đã gắng nhốt mình vào
áo lính
Cũng chẳng khác là bao cái kích thước khác người
Chung sống cho qua loa chung tình cho quên nguôi
Vờ tí tửng nén đau thầm
nghĩ ngợi
Nước mắt tuôn rơi ngược thành rượu nội
Cứng rắn bao nhiêu mềm yếu bấy nhiêu thôi
Sống nhiều để làm chi sống hết quá đủ rồi
Thu Bồn núi chợt nhập vào rặng núi
Trường Sơn tháng sáu này
chảy ra thêm nguồn suối
Thơm mùi men say ngây ngất tiếng cười.
NGUYỄN THỤY KHA