Nối liền khúc ruột với Nam Trung Bộ, vùng đất đỏ miền Đông Nam Bộ bên cạnh trung du và đồng bằng cũng vừa có biển đảo vừa có núi rừng. Nơi đây vừa diễn ra cuộc thi thơ khu vực lần đầu với những thành công.
Cuộc thi sáng tác thơ khu vực Đông Nam Bộ lần thứ I năm 2024 do Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Thuận đăng cai tổ chức. Đây là cuộc thi mở rộng dành cho các tác giả trên địa bàn 6 tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và các tỉnh lân cận.
Chỉ hơn 4 tháng phát động, ban tổ chức cuộc thi đã nhận được gần 400 tác phẩm của 87 tác giả tham gia. Ban tổ chức tổng hợp 265 tác phẩm hợp lệ của 63 tác giả để thẩm định vòng sơ khảo và chọn 75 tác phẩm của 18 tác giả có chất lượng nghệ thuật và nội dung để giới thiệu vào vòng chung khảo. Ban tổ chức cuộc thi đã trao 1 giải nhất, 2 giải nhì, 3 giải ba và 5 giải khuyến khích.
Từ âm vang biển đảo
Cuộc thi sáng tác thơ khu vực Đông Nam Bộ lần thứ I đã phát hiện những cây bút mới giàu tiềm năng, đặc biệt là tác giả được trao giải nhất Nguyễn Vũ An Hòa ở Bình Thuận với 2 bài thơ Người quê tôi và Đá khóc. Chưa một lần đăng thơ trên báo chí, Nguyễn Vũ An Hòa cho biết bài thơ Người quê tôi được viết từ hình ảnh của người cha làm thợ hồ vất vả ở miền biển quê hương. Từ một con người cụ thể, bài thơ khái quát đời sống của nhiều số phận người dân ven biển bao thế hệ đầy xúc động:
“Bọn trẻ chúng tôi
Đói, nhấp mùi cá tanh
Khát, ực hơi biển lạnh
Gầy nhẳng và gai góc
Như xương rồng vươn cành đến trời xanh
Mài ánh nắng nuôi bông hoa trắng
Mẹ cõng mặt trời thì con cõng mẹ
Cha vác cuộc đời, con sẽ vác cha
Ngày mà bông hoa kết quả
Cả nhà cùng no
Ngọt
Không chỉ một đời”
Bài thơ được viết một cách tự nhiên như bật ca từ tâm thức khi xúc cảm dâng trào. Nhưng vẫn rất điêu luyện. Cái điêu luyện không phải do cố ý làm dáng bằng kỹ thuật mà nó cũng tự nhiên “Như xương rồng vươn cành đến trời xanh/ Mài ánh nắng nuôi bông hoa trắng” nên thơ và độc đáo.
Cùng viết về số phận những con người sống ven biển còn có tác giả Nguyễn Tấn On với tác phẩm Đời, muối, mắm được trao giải ba: “Thuở ông bà gánh nước biển đổ ruộng/ nước bốc hơi dưới ánh mặt trời/ thành hạt muối chưa trắng bằng mồ hôi khô áo”.
Tất nhiên nói tới biển đảo Tổ quốc không thể quên Trường Sa và Hoàng Sa. Tác giả Bùi Ngọc Phúc đoạt giải nhì với chùm 2 tác phẩm Viết phía sau tháp Pô Sah Inư, Hoa bí vàng và anh lính Trường Sa, trong đó bài thơ về Trường Sa có cách liên tưởng khá độc đáo:
“Có phải ngôi sao trên mũ anh xuống làm hoa bí
Hay hoa bí kết sắc vàng lên những ngôi sao
Giữa nắng nóng như thiêu như đốt
Lòng rưng rưng những dây bí dây bầu…”
Bí bầu mọc từ san hô quấn quýt lấy nhau và sẻ chia với người lính từng hớp nước giữa phong ba gian khó. Bí bầu cũng là hình ảnh tượng trưng của đất liền, của quê hương mà trong những giây phút mềm lòng nhớ thương: “Có anh lính ghé môi hôn hoa bí vàng và bật khóc/ Vọng quê nhà bầu, bí trập trùng xa”!
Trong khi đó, bài thơ Trang nhật ký tuổi hai mươi được trao giải ba của Trần Thị Bảo Thư hiện lên không khí tươi mới, giàu sức sống và đầy trách nhiệm trai trẻ.
“Anh lên đảo khi bình minh thức dậy
Mạn Đá Tây cao vút tiếng gà
Bông cỏ dại nghiêng gió cười bẽn lẽn
Giữa mặn mòi hoa vẫn lại đơm hoa”
Đáng ngạc nhiên khi tác giả Trần Thị Bảo Thư chưa một lần được đi Trường Sa, mà chỉ mượn hình ảnh chàng trai tạm biệt người yêu lên đường làm nghĩa vụ ở đảo xa để dựng nên tứ thơ. Thế mới biết nhà thơ không phải lúc nào cũng là người trong cuộc, và thơ không hẳn là người, mà thơ chỉ là phương tiện chuyển tải nguồn cảm hứng của cuộc sống phong phú muôn hình muôn vẻ diễn ra quanh ta. Cụ thể ở đây là Trường Sa - hải đảo mênh mông của Tổ quốc mà “Đến hôm nay ra biển anh mới biết/ Đất và trời chân lý thật bao la”!
Thiết kế: YÊN LAN |
Đến vẻ đẹp thầm lặng của núi rừng
Tác giả Đàm Chu Văn với chùm hai bài thơ Già làng Năm Nổi và Uống rượu cần ở Tà Lài được trao giải nhì. Đây là một tên tuổi quen thuộc trên thi đàn từng có nhiều tác phẩm được bạn đọc cả nước biết đến.
“Vít cần ta uống song đôi
Hình như ánh mắt bờ môi rất gần
Hương rừng vừa lạ vừa thân
Men rừng chầm chậm ủ dần hồn ta”
Không gian núi rừng vừa thực vừa hư đầy huyền bí xuyên thấu bài thơ lục bát nhuần nhuyễn ám gợi lạ thường. Và trong hương rừng, men rừng, tiếng rừng, trăng rừng, suối rừng… hiện lên hình ảnh sơn nữ đương xuân đẹp đến lạ thường:
“Rối tung hương tóc la đà
Rối tung câu chuyện rừng xa rẫy gần
Em còn trẻ mấy lần xuân
Mắt rung rinh nắng, bần thần sương sa
Bàn tay dệt cửi thêu thùa
Chăm con con lớn, trỉa mùa mùa sây
Ngàn xưa còn gửi lại đây
Hoa văn đọng nét chỉ mây đậm đà”
“Uống rượu cần” chỉ là một cách nói, cách mượn. Không phải là thi sĩ thì không thể bần thần phát hiện sự kỳ diệu của bàn tay và những điều khác đầy mê hoặc của sơn nữ. Đó cũng chính là sự diệu kỳ của thi ca. Và chỉ có thi ca mới rung cảm, liên tưởng, tái hiện, tạo dựng nét đẹp mà đôi mắt bình thường không tài nào nhìn thấy: “Chồi xanh mở lá thắm mùa/ Vai rung điệu múa không chờ cồng chiêng”.
Nếu như bài thơ Uống rượu cần ở Tà Lài được nhà thơ Đàm Chu Văn viết bằng thể thơ lục bát truyền thống và không gian thẩm mỹ có thể gợi lên bất kỳ núi rừng nào trên đất nước này chứ không riêng Tà Lài, thì Già làng Năm Nổi được viết bằng thơ văn xuôi hiện đại, câu dài, hơi hướm sử thi và câu chuyện hoàn toàn là “đặc sản” miền Đông Nam Bộ:
“Cây cổ thụ cuối cùng của làng Chơ Ro Phú Lý đã chìm bóng nơi xa xăm ngàn thẳm/ Ông vừa giã biệt ngôi làng bập bẹ tiếng con nít học nói, bậm bịch bước chân chạy nhảy, thực hiện chuyến ngược nguồn/ Ghé vai xốc lại dây gùi, rựa, rìu, chà gạt vẹt mòn xủng xoảng, trĩu nặng liêu xiêu bước chân tuổi tác”.
Không gắn bó, am hiểu về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên, con người của đất Đồng Nai, miền Đông Nam Bộ mà già làng Năm Nổi huyền thoại của dân tộc Chơ Ro là một trong những hình ảnh tiêu biểu thì nhà thơ Đàm Chu Văn khó mà tái dựng được một thi tứ đặc biệt như vậy. Già làng Năm Nổi đã vĩnh viễn “chìm bóng nơi xa xăm ngàn thẳm”, nhưng qua bài thơ hình ảnh ông vẫn sống mãi cùng núi rừng thiêng liêng mà cả đời ông gắn bó, và bước chân ông như vẫn chập chờn đi về cùng muông thú cỏ cây.
Thiên nhiên núi rừng qua trí tuệ, sức lực con người còn biến thành nương rẫy, vườn tược, mà bài thơ Mùa hoa điều nở của tác giả Hồng Nhạn phản ánh khá sinh động:
“Chúng con lớn lên
Ríu rít sân nhà
Nắng lửa miền Đông và hoa điều bung nở
Trái đỏ vàng níu tuổi thơ một thuở
Que kem bốn mùa dịu mát mùa sang”
Hình ảnh hoa trái điều như sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ, tạo nên tứ thơ vừa chặt chẽ vừa sinh động có sức quyến rũ người đọc. Cây điều gắn với đời người. Hoa trái điều cùng con người lớn lên, trưởng thành, đi xa và… mong ngóng ngày trở về với lòng biết ơn!
PHAN HOÀNG