Thứ Hai, 14/10/2024 13:19 CH
Nguyễn Đức Mậu: Thơ và cẩm nang cho người yêu thơ
Chủ Nhật, 20/09/2015 14:00 CH

Không chỉ là một trong những gương mặt thơ đương đại tiêu biểu nhất của thế hệ bước ra từ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu còn lặng lẽ đóng góp về lý luận phê bình thơ, giúp những người yêu thơ và mới bước vào con đường sáng tác có được những kiến thức cơ bản, quý báu. Trong đó, tập tiểu luận Niềm say mê ban đầu có thể xem như một “cẩm nang”.

 

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu - Ảnh: T.L

VỪA GẦN GŨI VỪA BIẾN ẢO

 

Mỗi nhà thơ chọn cho mình một con đường riêng để sáng tạo và cống hiến. Với nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, ông đã chọn cho mình con đường vừa quen vừa lạ, vừa giản dị vừa sâu sắc, vừa gần gũi vừa biến ảo, mới đọc tưởng chừng đã hiểu, càng đọc càng day dứt, càng vỡ ra nhiều mảng, nhiều tầng, ám ảnh khôn nguôi.

 

Ông là lính chiến thứ thiệt. Thơ ông là “Thơ người ra trận” như tên tập thơ đầu tay ông in chung cùng nhà thơ Vương Trọng năm 1972, khi ông đang chiến đấu trên chiến trường Lào. Thơ lính thì nói về lính, nhưng trong cái đề tài quen thuộc ấy, ông đã có cách biểu hiện khác lạ về cấu tứ và hình tượng, mà bài thơ dài Nấm mộ và cây trầm hình thành trong hoàn cảnh ác liệt “cái chết bay ra từ nòng súng quân thù” là minh chứng vượt thời gian. Bài thơ gồm ba phần, mở đầu bằng “tưởng nhớ”:

 

“Đất đắp mộ Hùng gom trộn lẫn

Cây trầm cháy dở thay nén nhang

Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm

Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc

Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng

Những đêm hai đứa xong phiên gác

Bao gạo gối đầu chăn đắp chung”

 

Bài thơ như một câu chuyện kể cô đọng và xúc động về sự hy sinh của người đồng đội thân thiết tên Hùng, một cái tên cụ thể nhưng cũng là cái tên chung cho bao chiến sĩ đã ngã xuống trên chiến trường. Và bài thơ kết thúc với phần ba “ra đi” với khổ thơ cuối cùng:

 

“Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm

Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ

 Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hy sinh thơm đất, thơm trời”

 

Hồi tưởng về thời điểm ra đời bài thơ nổi tiếng này, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu trong tập tiểu luận Niềm say mê ban đầu đã cho hay: “Tôi còn nhớ vào một đêm mùa đông năm 1969, ở nghĩa trang biên giới, bọn “giặc trời” thả đèn dù, ném bom. Ánh sáng đèn dù treo lơ lửng, lúc nhập nhoạng, lúc bùng lên trên các lùm cây, ngọn đồi. Những cây thông bị cháy chĩa thẳng lên trời như những nén nhang lớn. Dưới ánh đèn dù, dưới tàn lửa của những cây thông, tôi cùng một số người trong tổ vận tải tranh thủ đào huyệt, khâm liệm và chôn xác đồng đội. Từ khung cảnh đầy chất bi tráng đó, tôi có được cái tứ để viết bài thơ Nấm mộ và cây trầm. Nghĩa là từ hình ảnh cây thông bị cháy, người lính thi sĩ đã liên tưởng và dựng nên hình tượng cây trầm quý thắp lên mộ đồng đội vừa hy sinh: “Cây trầm cháy dở thay nén nhang/ Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm”.

 

Nếu như Nấm mộ và cây trầm là bài thơ thời chiến của Nguyễn Đức Mậu gây cho tôi ấn tượng nhất thì trong thời bình đó là Đàn bò vàng trên đồng cỏ hoàng hôn. Từng ám ảnh với Tiếng gọi bò của nhà thơ Văn Lê giữa đêm đạn pháo, trong một không gian nghẹt thở cô đơn tiếng người mà trống vắng bóng dáng con bò, thì Đàn bò vàng trên đồng cỏ hoàng hôn của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu mang lại cho tôi xúc cảm khác, một vẻ đẹp khác, trong một không gian an bình thánh thiện hòa lẫn giữa thiên nhiên với con người:

 

“Đàn bò vàng trên đồng cỏ chiều yên

 tiếng mõ rơi, tiếng mõ rơi đều

cả đồng cỏ lút vào khoảng tối

như vẫn còn rung nhịp mõ kêu

Có một kẻ đi sau người chăn bò mê mải

túi áo gói đầy hương cỏ thơm

trái tim đựng đầy tiếng sáo và tiếng mõ

đôi mắt đong đầy giàn giụa suối trăng non”

 

Một bức tranh ngôn ngữ thăng hoa và trong trẻo lạ thường giữa đời sống xô bồ ô nhiễm hỗn tạp. Thoạt lướt qua cứ ngỡ nhà thơ tả cảnh tả tình. Đúng mà không hoàn toàn đúng. Cái cảnh ở đây là cảnh tổng hòa từ nhiều cảnh khác nhau trở thành cảnh nung nấu trong tâm tưởng của thi sĩ, để qua lăng kính trí tuệ và tình cảnh của mình, ông đã tạo dựng thành một cảnh quan riêng biệt độc đáo. Có thể nói bài thơ Đàn bò vàng trên đồng cỏ hoàng hôn đặt một dấu ấn mới trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Tất nhiên, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ có Nấm mộ và cây trầm, Đàn bò vàng trên đồng cỏ hoàng hôn mà ông còn có nhiều bài thơ, tập thơ, trường ca hay khác trong sự nghiệp phong phú và đồ sộ, làm nên diện mạo riêng ông như: Cây xanh đất lửa (1973), Mưa trong rừng cháy (1976), Trường ca sư đoàn (1980), Hoa đỏ nguồn sông (1987), Từ hạ vào thu (1992), Bão và sau bão (1994), Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998), Bầy chim màu lá vàng (2004), Mở bàn tay gặp núi (trường ca, 2008), Từ trong lòng cuộc chiến (2010)… Thơ cũng đã mang lại cho ông nhiều giải thưởng văn học cao quý; trong đó có Giải thưởng Nhà nước năm 2001, Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2001, hai Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam… Ngoài ra, Nguyễn Đức Mậu còn là tác giả của một số tiểu thuyết, tập truyện ngắn và vừa, tiểu luận thơ đáng chú ý.

 

CẨM NANG CHO NGƯỜI YÊU THƠ

 

Đọc tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu từ lâu và gặp ông nhiều lần, nhưng chỉ khi tham dự Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IX giữa tháng 7/2015, tôi mới có dịp trò chuyện lâu với ông. Nhìn xa, cứ ngỡ bậc đàn anh khó tính, nhưng khi đã gần, có lẽ ông chỉ còn khó tính trong thơ, còn ngoài đời là con người thân thiện, nhiệt thành, mê đắm chuyện văn chương. Dịp này, ông cũng tặng tôi tập tiểu luận Niềm say mê ban đầu do Nhà xuất bản Dân Trí vừa ấn hành còn tươi màu mực.

 

Mấy đêm chậm rãi đọc đi đọc lại tập tiểu luận này, tôi lại thấy nhà thơ Nguyễn Đức Mậu hiện lên ở một cung bậc khác. Có thể nói, ông là một trong những gương mặt thơ đương đại tiêu biểu nhất của thế hệ bước ra từ chiến tranh cứu nước, qua tập tiểu luận Niềm say mê ban đầu, ông lại còn lặng lẽ đóng góp về lý luận phê bình thơ, giúp người yêu thơ và mới bước vào con đường sáng tác có được những kiến thức cơ bản quý báu. Mở đầu tập tiểu luận với bài Trước trang giấy trắng, ông đã chỉ ra một cách chí lý, nhất là cho những người trẻ tự chất vấn: “Là nhà thơ, ai cũng muốn sáng tạo, tìm tòi, ai cũng sợ những lối mòn của mình và những người khác. Thế nên, trước trang giấy trắng, anh mới phân vân, cân nhắc đủ đường. Viết ra chữ thì dễ, viết thành câu thành vần cũng dễ, viết ra một bài thơ thường thường bậc trung cũng chẳng khó khăn gì. Vậy viết thế nào cho hay, cho mới? Trước trang giấy trắng, có điều gì cao hơn, xa hơn, bắt anh phải hướng tới, phải se sắt với chính mình…?”.

 

Để góp phần giúp người làm thơ viết cho hay, cho mới, từ kinh nghiệm của mình và những tác phẩm tiêu biểu của các nhà thơ, Nguyễn Đức Mậu đã trình bày một cách bình dị, khúc chiết nhiều vấn đề thiết thực của việc sáng tác như: Cảm xúc trong thơ, mở đầu một bài thơ, màu sắc trong thơ, chất truyện trong thơ, những câu thơ hay, chữa thơ, giới thiệu và phê bình thơ, vần điệu trong thơ lục bát, thơ có mặt ở mọi nơi, bóng đá và thơ, nghệ thuật sử dụng ngôn từ

 

Người đọc còn bắt gặp trong tập tiểu luận này những kỷ niệm, nhìn nhận về con người và sự nghiệp của các nhà thơ Khương Hữu Dụng, Tế Hanh, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Phùng Khắc Bắc, Duy Khán… và cả một số nhà thơ quốc tế lẫn những chiến binh bình thường có những bài thơ, câu thơ hay. Viết về ai, dù là bậc tiền bối, người nổi tiếng hoặc những người trẻ mới xuất hiện trong các cuộc thi, trại sáng tác, Nguyễn Đức Mậu đều hết sức chân thành và “lảy” ra những cái hay của họ. Vừa gom nhặt bụi vàng, ông vừa tác tạo thành những “sản phẩm” đẹp cho đời. Tâm và tài như nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, thật đáng quý và may mắn cho nền thi ca Việt Nam.

 

PHAN HOÀNG

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek