Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới và trong nước, thiên tai thường xuyên xảy ra, nhưng nhờ phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị nên tình hình kinh tế - xã hội của huyện Đông Hòa vẫn phát triển ổn định, đời sống của người dân từng bước được nâng lên. Nhân kỷ niệm 10 năm Ngày thành lập huyện Đông Hòa, trao đổi với Báo Phú Yên về những kết quả mà địa phương đã đạt được, cũng như các chỉ tiêu phấn đấu trong thời gian tới, ông Lê Thanh Nghiêm, Chủ tịch UBND huyện, cho biết:
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh và đại diện nhà đầu tư ấn nút động thổ dự án Nhà máy lọc hóa dầu Vũng Rô - Ảnh: Q.THUẦN |
- Thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu huyện Đông Hòa, với sự quyết tâm cao độ của cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, 10 năm qua, huyện Đông Hòa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng của huyện tăng bình quân 11,5%/năm, cao hơn mức bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch, tuy chậm nhưng đúng hướng. Tỉ trọng ngành Công nghiệp - xây dựng chiếm 20,5% (2010: 16,94%); Thương mại - dịch vụ: 51,3% (năm 2010: 43,4%); Nông nghiệp: 28,2% (năm 2010: 39,6%). Nếu như trong giai đoạn 2005-2010, thu nhập bình quân đầu người của huyện chỉ 15,5 triệu đồng thì đến 2010-2015 đạt 37,4 triệu đồng/người/năm.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Đông Hòa đến năm 2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt. Theo đó, đến năm 2020, xây dựng huyện Đông Hòa trở thành thị xã công nghiệp, trung tâm giao thương quốc tế, cảng biển lớn của vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2006-2020 đạt 20,28%/ năm, đến năm 2020, chiếm 38,6% nền kinh tế tỉnh; GDP bình quân đầu người đạt 8.059USD, gấp 2,7 lần so với trung bình chung cả tỉnh; trong cơ cấu kinh tế của huyện, nông - lâm - thủy sản chiếm 3,89%, công nghiệp - xây dựng chiếm 70,88% và dịch vụ chiếm 25,13%; thu ngân sách địa phương trên GDP đạt 18%... Để thực hiện đạt mục tiêu trên, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện trong giai đoạn 2006-2020 ước khoảng 128.900 tỉ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm từ 3,5-3,8%; đồng thời tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu công việc; áp dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chú trọng phát triển kinh tế nhiều thành phần và tăng cường mối liên kết, hợp tác phát triển với các địa phương lân cận. |
Các thành phần kinh tế và loại hình kinh tế của huyện được tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để phát triển, góp phần tạo việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Hiện 100% hộ dân trong huyện sử dụng điện lưới quốc gia, 95% hộ dân sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh. Công tác xã hội hóa giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đông đảo các cơ quan, đơn vị và nhân dân hưởng ứng tích cực. Văn hóa và thể dục thể thao của huyện tiếp tục phát triển; 40% số xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế theo tiêu chí mới, 69% dân số tham gia bảo hiểm y tế. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, chính quyền các cấp được củng cố, xây dựng; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường.
Sự năng động của huyện Đông Hòa dễ nhận thấy khi đến Hòa Vinh - thị trấn huyện lỵ dọc tuyến quốc lộ 1 từ Hòa Vinh đến Hòa Xuân Tây, hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng, phong phú. Tại khu trung tâm hành chính huyện, hàng loạt công sở, trường học được xây dựng khang trang, khoác lên mình chiếc áo mới của một đô thị trẻ. Không chỉ ở khu vực trung tâm huyện, đến thị trấn Hòa Hiệp Trung và các xã trong huyện chúng ta cũng cảm nhận được những thay đổi đáng kể, kết cấu hạ tầng được tăng cường.
* Ông có thể đánh giá tổng quát những kết quả đạt được trong công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong thời gian qua?
- Qua 10 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, tuy có nhiều khó khăn nhất định, nhưng cả hệ thống chính trị của huyện đã phát huy truyền thống cách mạng, nỗ lực vượt qua khó khăn, triển khai thắng lợi các mục tiêu đề ra. Quá trình thực hiện đã thu được nhiều kết quả trên các lĩnh vực, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. Kinh tế tiếp tục phát triển và chuyển dịch đúng hướng; cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, tốc độ đầu tư của huyện ngày càng mạnh, nhiều công trình, dự án quan trọng hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các dự án lớn như: Hầm đường bộ qua đèo Cả, Nhà máy lọc hóa dầu Vũng Rô, Nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1, cảng cá Phú lạc, khu tái định cư Phú Lạc… được triển khai đã tạo nên những động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới đã triển khai nhiều km đường giao thông nông thôn, hệ thống điện chiếu sáng…, tạo nên bộ mặt nông thôn mới, đô thị của huyện có nhiều đổi mới và khởi sắc. Các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết tốt, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy…
* Mục tiêu của huyện trong thời gian tới là gì, thưa ông?
- Những thành tựu đạt được sau 10 năm thành lập đã mở ra cho huyện bước phát triển mới. Bên cạnh những thuận lợi, huyện cũng gặp không ít khó khăn do quy mô kinh tế còn nhỏ, phát triển chưa bền vững. Vì vậy, mục tiêu cụ thể của huyện trong giai đoạn 2015-2020 là phát huy tối đa lợi thế của huyện nằm trong vùng kinh tế động lực phía nam của tỉnh; tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh và huy động mọi nguồn lực để tập trung phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững; tạo cơ sở vật chất, hạ tầng vững chắc nhằm đẩy mạnh tiến trình xây dựng huyện thành đô thị loại 4 vào năm 2017, làm cơ sở để nâng cấp Đông Hòa thành thị xã trước năm 2020.
Các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn 2015-2020, đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế 20,28%/năm; thu nhập bình quân đầu người vào năm 2020 đạt 103 triệu đồng/người/ năm. Tỉ trọng ngành Công nghiệp - xây dựng chiếm 54,27%, Thương mại - dịch vụ chiếm gần 34,48% và Nông nghiệp còn 11,25% trong cơ cấu kinh tế của huyện. Thu ngân sách tăng bình quân 18%/năm. Đến năm 2020, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 2%, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 1%, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 9,5%; giữ vững kết quả chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 1 và phổ cập THCS 10/10 xã, thị trấn. 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, 99% dân số sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh. Huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, các thiết chế văn hóa…
* Xin cảm ơn ông!
QUANG THUẦN (thực hiện)