I. ÂM MƯU CỦA ĐẾ QUỐC MỸ MỞ RỘNG CHIẾN TRANH RA MIỀN BẮC: QUYẾT TÂM CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG TA VÀ TINH THẦN CHIẾN ĐẤU DŨNG CẢM CỦA BỘ ĐỘI HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM
1. Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ nhằm mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam
Những tháng cuối năm 1963, vấn đề Việt Nam ngày càng trở nên nóng bỏng đối với giới cầm quyền Mỹ. Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng, hậu thuẫn cho cuộc đảo chính phế bỏ anh em Tổng thống tay sai Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu (ngày 1/11/1963). Sau đảo chính, tình hình chính trị ở Sài Gòn không những không được cải thiện mà càng trở nên tồi tệ, rối ren hơn. Bọn tay sai mới tiếp tục đấu đá, lật đổ lẫn nhau và không chống đỡ nổi những cuộc tiến công nổi dậy mạnh mẽ của quân và dân ta. Trong khi đó, lực lượng cách mạng ngày càng được củng cố, phát triển và giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường.
Nhằm cứu vãn sự thất bại không thể tránh khỏi của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam bằng một chiến lược mới và mở cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, nơi mà chúng cho là “gốc rễ” của cách mạng, là hậu thuẫn của cách mạng miền Nam, để triệt tiêu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và ngăn chặn sự giúp đỡ của các nước cho cách mạng Việt Nam. Tháng 2/1964, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã thông qua “chương trình thử nghiệm 4 tháng” gồm 3 nội dung chủ yếu:
- “Kế hoạch hành quân 34A” (kế hoạch do thám bằng máy chiến lược U2, bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để khai thác tin tình báo, sử dụng các đội nhảy dù phá hoại và các cuộc tiến công của biệt kích từ hướng biển) “nhằm gây tàn phá, tổn thất nặng nề về kinh tế và phá rối Hà Hội” và được tăng lên trong suốt năm 1964.
- Mở các cuộc tiến công của không quân Lào do CIA tổ chức nhằm chuẩn bị cho mở rộng hơn nữa kế hoạch ném bom miền Bắc Việt Nam.
- “Kế hoạch Đề sô tô”, tổ chức các cuộc tuần tra bằng tàu khu trục Mỹ ở khu vực vịnh Bắc Bộ, nhằm thu thập tin tức tình báo phục vụ cho các hoạt động trong khuôn khổ Kế hoạch 34A, hỗ trợ các cuộc tiến công của hải quân Nam Việt Nam vào bờ biển miền Bắc.
Thực chất đây là chương trình hoạt động phô trương sức mạnh và tìm cớ để gây chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Ngày 17/4/1964, Bộ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đưa ra kế hoạch đánh phá các tuyến vận chuyển chiến lược của ta chạy dọc biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia nhằm ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam. Kế hoạch này được mang tên Oplan 37 dự định thực hiện qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Truy kích Việt Cộng qua biên giới Lào và Campuchia.
Giai đoạn 2: Mở các cuộc oanh kích và dùng mìn đánh phá các mục tiêu đã dự định trong nội địa miền Bắc.
Giai đoạn 3: Tăng cường oanh tạc mạnh mẽ và liên tục chống miền Bắc.
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ soạn thảo kế hoạch hành động từng bước, kết hợp cả hoạt động chính trị và quân sự chống lại miền Bắc Việt Nam; soạn dự thảo nghị quyết nhằm tìm kiếm sự phê chuẩn của Quốc hội cho việc mở rộng các hoạt động quân sự ở Đông Dương.
Theo chỉ thị của Giôn-xơn, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ thông qua kế hoạch dùng không quân, hải quân đánh phá 94 mục tiêu trên miền Bắc nước ta (gồm 12 điểm nút giao thông vận tải, kho, cảng, bến bãi; 9 khu vực sân bay; 53 khu vực quân sự; 8 khu vực công nghiệp; 12 đường bay trinh sát vũ trang). Dự kiến thực hiện kế hoạch qua 4 giai đoạn trong 13 tuần (một số tài liệu trước ghi 12 ngày). Trong đó, giai đoạn 1 (3 tuần): tấn công liên tục trên các tuyến giao thông, các khu vực quân sự phía nam vĩ tuyến 20. Giai đoạn 2 (6 tuần): cô lập Bắc Việt Nam bằng cách phá hủy các tuyến đường sắt liên hệ với Trung Quốc. Giai đoạn 3 (2 tuần): cô lập Bắc Việt Nam bằng cách phá hủy các cơ sở kho cảng, bến bãi, các khu lưu trữ và cung cấp đạn dược, xăng dầu ở Hải Phòng - Hà Nội. Giai đoạn 4 (2 tuần): phá hủy tất cả các mục tiêu còn lại trong danh sách bao gồm các khu công nghiệp, khu khai thác.
Lực lượng Hải quân Việt Nam - Ảnh: TL |
Bằng cách thức tiến hành leo thang từng bước với quy mô tăng dần và tính chất ngày càng ác liệt. Dùng hải quân khóa chặt cửa biển miền Bắc. Dùng máy bay của không quân và của hải quân mở các chiến dịch đánh phá ven biển, các mục tiêu trong nội địa, săn tìm các căn cứ hải quân Bắc Việt để tiêu diệt lực lượng tàu thuyền chiến đấu có khả năng cản trở bước tiến công của chúng. Dùng máy bay thả thủy lôi, bom từ trường để phong tỏa các cảng sông, cửa biển. Đồng thời trang bị hiện đại cho hải quân ngụy kết hợp chống phá miền Bắc. Đế quốc Mỹ hy vọng “Hà Nội sẽ phải “quỳ gối” trong vòng 2 đến 6 tháng”.
Đến tháng 5/1964, kế hoạch xúc tiến chiến tranh phá hoại miền Bắc đã được đế quốc Mỹ hoàn tất. Hệ thống căn cứ không quân, hải quân bố trí gần miền Bắc nước ta đều đã được bảo đảm sẵn sàng nhận lệnh (Hạm đội 7, căn cứ Đà Nẵng, sân bay Ubon và Cò Rạt ở Thái Lan, Guam ở Thái Bình Dương).
Để thực hiện kế hoạch đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân với một “kịch bản” đã được chuẩn bị từ trước, đế quốc Mỹ xác định phải “có một chiến dịch khiêu khích Bắc Việt Nam” để tạo cớ. Và họ đã tính toán cái “cớ” ấy nằm trong khuôn khổ của kế hoạch Đề sô tô là phù hợp nhất.
Ngay từ ngày 2/3/1964, Mỹ cho tàu khu trục tuần tiễu ven biển miền Bắc Việt Nam vừa trinh sát vừa thăm dò ta và làm hậu thuẫn cho hải quân ngụy đánh phá các đảo và vùng dân cư ven biển các tỉnh Khu 4; cho máy bay do thám vùng trời, cho tàu thả biệt kích, hàng tâm lý chiến ở các cửa sông, ven biển và truyền đơn kích động gây chiến tranh tâm lý; cho tàu khu trục, tuần dương vào sát bờ do thám và quấy rối, phá hoại, bắt cóc ngư dân... gây hoang mang trong nhân dân.
Bước sang tháng 7, các hoạt động khiêu khích của Mỹ càng gia tăng hơn. Chúng vừa đẩy mạnh các hoạt động trên biển, trên trời và phá hoại trên đất liền, vừa rêu rao sẽ oanh tạc miền Bắc Việt Nam để gây chú ý của dư luận.
Đêm 30/7/1964, chúng cho tàu biệt kích ngụy bắn pháo bừa bãi lên đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), Hòn Ngư (Nghệ An). Ngày 1 và 2/8, các máy bay T28 của phái hữu Lào được Mỹ huy động bắn phá Đồn Biên phòng Nậm Cắn và làng Noọng Dẻ ở miền tây tỉnh Nghệ An.
Ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc. Đặc biệt đêm 31/7 rạng sáng 1/8/1964, tàu khu trục Ma-đốc đã tiến vào vùng biển Quảng Bình để thu thập tin tức tình báo và khiêu khích lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam, có lúc chúng vào cách đông đèo Ngang khoảng 8 hải lý, vi phạm lãnh hải của ta. Đài quan sát của hải quân ta ở đèo Ngang nhìn rõ số hiệu 731 của tàu Ma-đốc.
Ngày 2/8/1964 tàu Ma-đốc bị tàu phóng lôi của hải quân ta tiến công đánh đuổi buộc chúng phải rút ra khỏi vùng biển của Việt Nam, thì ngay lập tức Mỹ lớn tiếng vu cáo “tàu phóng lôi của Việt Nam vô cớ công kích tàu Ma-đốc của Mỹ đang đi trên vùng biển quốc tế...”, và “Bắc Việt Nam khiêu khích trắng trợn, Bắc Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế...”. Để những lời vu cáo đó có sức thuyết phục hơn đối với nhân dân Mỹ và dư luận quốc tế, hôm sau, Giôn-xơn lệnh cho tàu khu trục Toóc-nơ-gioi cùng khu trục Ma-đốc tiếp tục vào vịnh Bắc Bộ, nhanh chóng tạo ra “sự kiện thứ hai” nhằm lấy cớ “trừng phạt Hải quân Bắc Việt Nam”. Đêm mùng 4/8/1964, Mỹ đã dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, cho tàu khu trục Ma-đốc và tàu Toóc-nơ-gioi ở vùng biển quốc tế phát tín hiệu bị tấn công, vừa hành trình vừa đồng loạt bắn các loại pháo ra xung quanh, rồi ngay lập tức nhà cầm quyền Mỹ ở Lầu Năm Góc lu loa lên rằng: “Một cuộc tiến công cố ý thứ hai trong đêm tối của các tàu tuần tra Bắc Việt Nam đã đánh vào tàu Ma-đốc và Toóc-nơ-gioi trong khi 2 khu trục này đang thực hiện tuần tra thường lệ ở vịnh Bắc Bộ trong hải phận quốc tế cách khoảng 65 dặm (gần 105km) nơi gần bờ biển nhất”.
Cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” do giới cầm quyền Mỹ dựng lên thực chất là bịa đặt, cố tình lừa dối nhân dân Mỹ nhằm để thông qua cho được bản nghị quyết của Quốc hội Mỹ về các hoạt động quân sự ở Việt Nam, được gọi là “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”, một nghị quyết mà thượng nghị sĩ Mỹ Uay-ni-mozơ, bang O-ri-gan đã mô tả như một bản “tuyên chiến đề ngày trước”. Đó là đường hướng, chính sách của chính quyền Mỹ đối với Việt Nam được tính toán cho việc leo thang mở rộng chiến tranh chứ không phải là bất ngờ hay là một “sự trả đũa”. Chính học giả Đanien-en-bớt của Hoa Kỳ đã khẳng định: Thực chất cuộc tấn công mang tính “trả đũa” lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam chỉ là cái cớ mở đường cho cuộc chiến tranh đẫm máu của Mỹ ở Việt Nam, một phần của kế hoạch gia tăng áp lực quân sự trên miền Bắc mà Hoa Kỳ đã theo đuổi từ đầu năm 1964.
23 giờ 30 (giờ Oa-sinh-tơn) ngày 4/8/1964, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố trên đài truyền hình Mỹ về việc ra lệnh cho các lực lượng quân sự của Mỹ có “hành động trả lời...” đối với Bắc Việt Nam.
Như vậy là, với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, cố tình của nhà cầm quyền Mỹ như thế, thì “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” sớm hay muộn cũng sẽ xảy ra, để tạo “cái cớ” cho hoạt động mở rộng chiến tranh của Mỹ ra miền Bắc nước ta.
(Còn nữa)
(Cục Chính trị Hải quân)