Từ ngày 9/7 vừa qua, TP Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ về giãn cách xã hội.
Sau 7 ngày, mặc dù số ca mắc COVID-19 phát sinh tăng từng ngày, nhưng số ca mới phát hiện trong cộng đồng và bệnh viện có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, do địa bàn TP Hồ Chí Minh rộng và phức tạp nên sau khi hết thời gian giãn cách theo Chỉ thị 16, Thành phố cần phải chuẩn bị các giải pháp cho các tình huống cụ thể theo diễn biến dịch như thế nào? Các trường hợp F1, F0 được thực hiện cách ly tại nhà liệu có tiếp tục là nguồn lây nhiễm COVID-19 không?
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn đã trao đổi, làm rõ các nội dung trên, giúp người dân TP Hồ Chí Minh nói riêng, người dân cả nước nói chung hiểu thêm về vấn đề này.
* Ông đánh giá thế nào về tình hình dịch COVID-19 tại TP Hồ Chí Minh?
- Với sự nỗ lực của TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố ở khu vực phía Nam trong công tác rà soát, phát hiện sớm các trường hợp bị mắc COVID-19 trong các khu cách ly, vùng phong tỏa và đặc biệt là sàng lọc trong cộng đồng, chúng ta nhận thấy kết quả là số lượng các ca mắc COVID-19 tại các địa bàn trên trong thời gian vừa qua đã tăng rất nhanh.
Ví dụ, trong ngày 15/7, tại TP Hồ Chí Minh có hơn 3.000 ca mắc COVID-19. Đây là gánh nặng rất lớn khi ngành Y tế phải tổ chức các đơn vị để thu dung, điều trị ban đầu, cũng như trong trường hợp bệnh nhân trở nặng phải chuyển bệnh nhân lên tuyến 2 và một số trường hợp nặng hơn phải chuyển lên tuyến 3, 4 là các trung tâm hồi sức của TP Hồ Chí Minh hoặc khu vực miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ.
Ngày 14/7, Bộ Y tế ban hành công văn số 5599/BYT-MT về việc giảm thời gian cách ly, thí điểm cách ly y tế F1 tại nhà, quản lý điều trị bệnh nhân COVID-19 để hướng dẫn cho các tỉnh, thành phố nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng về các biện pháp hạn chế, giảm bớt thời gian điều trị, theo dõi các bệnh nhân F0 không triệu chứng, cũng như giảm bớt thời gian cách ly ở trong khu cách ly tập trung với F1.
Đây là điều kiện cần thiết để các địa phương phòng, chống dịch đạt hiệu quả tốt hơn. Bệnh nhân cách ly tại nhà được gần gũi với gia đình, giảm bớt gánh nặng tâm lý. Đồng thời, những người đang ở khu cách ly tập trung sẽ có điều kiện được chăm sóc tốt hơn.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của ngành Y tế các địa phương sẽ có thêm nguồn dư để luôn sẵn sàng để tiếp nhận, thu dung những bệnh nhân mới. Gánh nặng chăm sóc bệnh nhân với đội ngũ nhân lực y tế làm việc ở khu cách ly y tế, các bệnh viện, khu trung tâm hồi sức cũng được giảm tải.
* Trong điều trị, theo dõi bệnh nhân F0 tại nhà, mỗi ngày vẫn cần có nhân viên y tế đến tận nhà kiểm tra sức khỏe, đo nhiệt độ, theo dõi tình hình bệnh nhân. Xin ông cho biết Thành phố Hồ Chí Minh sẽ vấp phải khó khăn gì khi thực hiện?
- Khi đưa những ca F0 đã đạt đủ tiêu chuẩn sau ngày thứ 10 với 2 lần xét nghiệm âm tính hoặc có tải lượng virus bằng xét nghiệp PCR thấp (CT>=30) trở về nhà là chúng ta dựa trên những căn cứ khoa học.
Theo nghiên cứu, bệnh nhân mắc COVID-19 thường trở nặng trong tuần đầu tiên. Đồng thời, khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra mốc 10 ngày để chăm sóc bệnh nhân xuất viện nếu không có triệu chứng hoặc bệnh nhân có triệu chứng nhưng 3 ngày sau khi hết triệu chứng là có thể xuất viện. Với bệnh nhân có tải lượng virus CT>=30 thì khả năng lây nhiễm ra cộng đồng đã được hạn chế thấp nhất.
Khó khăn của Thành phố Hồ Chí Minh cũng như các địa phương khác khi đưa những trường hợp F0 xuất viện trở về theo dõi tại nhà là gánh nặng cho hệ thống y tế cơ sở. Đối với mỗi địa phương, chúng tôi yêu cầu phải có sự theo dõi của hệ thống y tế cơ sở, các nhân viên y tế sẽ thăm hỏi, kiểm tra các trường hợp F0 mắc COVID-19 đã được đưa về nhà để theo dõi.
Bên cạnh đó, hệ thống liên lạc thông qua đường dây nóng, qua hệ thống công nghệ để chúng ta kiểm soát và phát hiện được các triệu chứng bất thường một cách nhanh nhất, từ đó tiếp tục theo dõi quá trình điều trị có thể không phải tại nhà mà tại một cơ sở y tế phù hợp nhất. Đây là những khó khăn mà TP Hồ Chí Minh phải vượt qua để đảm bảo việc áp dụng thành công cách ly F0 tại nhà.
* Trong trường hợp F0 cách ly tại nhà không tuân thủ những quy định của ngành Y tế thì nguy cơ lây nhiễm đối với cộng đồng sẽ ra sao, thưa ông?
- Trên nguyên tắc với tải lượng virus CT>=30 hoặc khi bệnh nhân âm tính thì khả năng lây lan cho những người trong gia đình và cộng đồng được hạn chế ở mức thấp nhất. Chúng tôi hy vọng, khả năng lây lan này không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động điều trị COVID-19 cũng như hoạt động phòng, chống dịch trong cộng đồng. Tuy nhiên, chúng tôi khuyến cáo, những người nhiễm COVID-19 sau khi đã đạt đủ tiêu chuẩn để cách ly tại nhà phải tuyệt đối tuân thủ những quy định, hướng dẫn của ngành Y tế.
Đối với các gia đình, khi đón người thân mắc COVID-19 về nhà để điều trị phải hợp tác với cán bộ y tế, đồng thời động viên bệnh nhân tuân thủ đúng hướng dẫn trong công văn 5599 của Bộ Y tế về các vấn đề như điều kiện ăn ở, điều kiện sinh hoạt, xử lý chất thải. Tôi hi vọng, với sự hỗ trợ của hệ thống y tế, chúng ta sẽ đảm bảo thành công việc thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của công văn 5599.
Từ ngày 15/7, TP Hồ Chí Minh đã bắt đầu thí điểm áp dụng đối với một số trường hợp cách ly F1 tại nhà sau thời gian cách ly tập trung, cũng như một số trường hợp cách ly F0 tại nhà. Bộ phận thường trực đặc biệt của Bộ Y tế sẽ theo dõi, hỗ trợ kịp thời cho TP Hồ Chí Minh không chỉ trong công tác thực tiễn mà có thể điều chỉnh chính sách phù hợp với tình hình dịch trong thời gian tới để đảm bảo công tác phòng, chống dịch tại TP Hồ Chí Minh thành công.
* Hiện tại, Bệnh viện Đức Giang (Hà Nội) đang có mô hình các bệnh nhân F0 tự chăm sóc và theo dõi sức khỏe cho nhau. Ông có đánh giá gì về mô hình này?
- Đối với các bệnh nhân F0, khi thực hiện cách ly trong 1 phòng, cùng trong 1 khu không còn sợ lây nhiễm chéo, vì tất cả các ca bệnh này đều dương tính với virus SARS-CoV-2. Vì thế, trong trường hợp các F0 không triệu chứng có thể chăm sóc, theo dõi sức khỏe cho nhau thì theo tôi đây là vấn đề nhân văn và nên được khuyến khích.
Tuy nhiên, đối với những trường hợp F0 (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) đang được theo dõi, có thể một số dấu hiệu chỉ nhân viên y tế mới phát hiện được. Ví dụ có 2 dấu hiệu để nhân viên y tế phát hiện và can thiệp y tế là nhịp thở của người bệnh và nồng độ SpO2 được đo bằng máy đo kẹp ngón tay. Với 2 dấu hiệu này, nếu chưa có đủ chuyên môn thì khó thực hiện. Do đó, việc F0 tự chăm sóc, theo dõi sức khỏe cho nhau vẫn cần thiết có sự giám sát của nhân viên y tế.
* Hiện TP Hồ Chí Minh đã qua hơn 7 ngày thực hiện Chỉ thị 16, theo đánh giá của Thứ trưởng thì sau 15 ngày, TP Hồ Chí Minh có khống chế được dịch bệnh hay không, hay phải tiếp tục khéo dài thêm thực hiện Chỉ thị 16?
- Việc thực hiện Chỉ thị 16 trên một địa bàn rộng lớn và phức tạp như TP Hồ Chí Minh thì có nhiều khó khăn và thành phố phải chuẩn bị đầy đủ các phương án. Có thể là dừng thực hiện Chỉ thị 16 đúng thời hạn, nhưng cũng có thể sẽ kéo dài hoặc kéo dài một số nội dung của Chỉ thị 16 trên địa bàn thành phố để đảm bảo cho công tác phòng, chống dịch đạt được thắng lợi.
Tuy nhiên, qua theo dõi 1 tuần tại TP Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy những biện pháp của chính quyền, hệ thống chính trị, càng gần ngày thực hiện thứ 7 càng được tăng cường mạnh mẽ, đặc biệt công tác giãn cách được thực hiện nghiêm túc tại các địa bàn trong thành phố. Bên cạnh đó, sự nỗ lực của ngành Y tế trong công tác làm xét nghiệm cho các khu vực có nguy cơ cao, rất cao và các công tác theo dõi F1. F0 bằng xét nghiệm PCR được thực hiện nhanh chóng với số lượng ngày càng tăng lên.
Tham gia hỗ trợ TP Hồ Chí Minh trong thời gian qua, chúng tôi hi vọng đỉnh dịch của TP Hồ Chí Minh đã đạt được sẽ giảm dần. Khi bắt đầu giảm thì chúng tôi cũng đề xuất, yêu cầu thành phố không nên dừng đột ngột Chỉ thị 16 mà lùi từng bước để đưa về tình trạng bình thường mới.
* Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
Theo TTXVN/Vietnam+