Hơn 83 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua muôn ngàn thách thức, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, Việt Nam không chỉ chiến thắng giặc ngoại xâm mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, ngày càng khẳng định vị thế vững chắc của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.
Trong các ý kiến đóng góp xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bên cạnh đại đa số ý kiến khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như Điều 4 của dự thảo, còn có một số ý kiến cho rằng “Không nhất thiết phải xác nhận lại vai trò lãnh đạo của Đảng như trong Hiến pháp hiện tại”, thậm chí còn xuyên tạc: “Nếu chỉ có một đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội sẽ dẫn tới chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ”. Lại có ý kiến băn khoăn: Vai trò cầm quyền của Đảng đã được “luật hóa” chăng?
Với quan điểm cụ thể, toàn diện và lịch sử, chúng ta thấy rằng: Trong điều kiện lịch sử của dân tộc, Hiến pháp 1946 và 1959 không quy định vai trò lãnh đạo của Đảng do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật, không hoạt động công khai song vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo chính trị. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta xây dựng Hiến pháp mới, khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều này là tất yếu, phù hợp với yêu cầu lịch sử và nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân và đúng theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Điều 4 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. Kế thừa tinh thần đó, Điều 4, Hiến pháp năm 1992, quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều 4, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, xác định cụ thể: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Qua quy định tại các Hiến pháp trên, chúng ta thấy trách nhiệm của Đảng trước đất nước, trước nhân dân ngày càng được đề cao. Đảng đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, cụ thể: từ “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp” (Hiến pháp 1980) đến “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Hiến pháp 1992) và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn quy định thêm việc tuân thủ, thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với mọi đảng viên nhằm bảo đảm giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đồng thời là giải pháp quan trọng để phòng, chống nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm của các đảng viên trong việc tự giác, gương mẫu thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật cũng nhằm mục đích làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường xuyên thể hiện vai trò gương mẫu trong ý thức, thái độ, trách nhiệm về suy nghĩ và việc làm, tư tưởng và hành động trong việc sống, làm theo Hiến pháp và pháp luật.
Thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị thể hiện trách nhiệm của Đảng trước đất nước và nhân dân như: Quy định 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp thường xuyên giữ vững mối quan hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ nơi cư trú”; Quy định 115-QĐ/TW ngày 7/12/2007 của Bộ Chính trị (khóa X), Quy định 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp... Nổi bật nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Điều đó đã thể hiện tinh thần cầu thị nghiêm túc của Đảng, đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm đẩy lùi những khuyết điểm, yếu kém để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngày càng ngang tầm với trọng trách được giao.
Như vậy, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với lịch sử, với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
ThS LÊ THỊ BÍCH HẠNH
(Trường Chính trị Phú Yên)