Ngày 21/11, Báo Phú Yên đăng bài Khi cha từ chối nhận con đề cập vụ án dân sự yêu cầu xác định con giữa nguyên đơn là ông N.H.T (trú TP Tuy Hòa) với chị N.T.H.N và anh N.H.S (trú xã Xuân Phước, huyện Đồng Xuân). Ngay sau khi vụ việc được phản ánh, cũng như qua phiên tòa phúc thẩm mới đây của TAND tỉnh, Báo Phú Yên đã nhận những phản hồi của người trong cuộc. Để rộng đường dư luận, tòa soạn thông tin thêm vụ việc này.
Theo đơn trình bày của ông N.H.T, giữa ông và bà V.T.N sống không hạnh phúc nên ông và bà N quyết định ly hôn vào năm 1993. Đến năm 2010, chị N (con gái bà V.T.N) đi lấy chồng. Trước ngày tổ chức đám cưới, chị N có gặp ông T xin được ghi tên ông vào thiệp cưới, ông không đồng ý. Đến khi phát thiệp mời, thấy có tên mình trong đó, ông gặng hỏi chị N thì chị giãi bày: “Phía họ trai chỉ có một mình mẹ chồng, phía gái cũng vậy nên buộc lòng phải ghi. Hơn nữa còn về quê tổ chức lại và đề nghị vợ chồng ông T ra dự đám cưới”. Đến khi đám cưới chị N tổ chức, vợ chồng ông T ra dự đám cưới. Sau đó, giữa họ có mâu thuẫn nên ông T buộc phải kiện ra tòa đề nghị giám định ADN.
TAND huyện Tuy An nhận đơn khởi kiện của ông T nhưng lại để 7 tháng sau mới thụ lý. Đồng thời lấy mẫu không thành lập hội đồng và cũng không có Viện KSND tham gia. Sau đó, thẩm phán tự lấy mỗi bên 10 sợi tóc rồi cất vào tủ hồ sơ, trong khi đó, cũng không yêu cầu ông T nộp chi phí giám định trước khi lấy mẫu.
Tiếp đó, ngày 21/3/2013, ông T yêu cầu lấy mẫu lại và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nhưng cấp sơ thẩm vẫn vi phạm quy định Luật Giám định tư pháp. Song song đó, khi gửi mẫu lại không kèm quyết định trưng cầu giám định mà để 5 ngày sau mới gửi là vi phạm Điều 25 và Điều 26 Luật Giám định tư pháp (gửi mẫu phải gửi kèm quyết định trưng cầu và chứng minh nhân dân - PV). Từ chỗ tiến hành lấy mẫu và gửi mẫu không khách quan và tránh sự mâu thuẫn kéo dài nên ông T đã không đồng ý với phán quyết của cấp sơ thẩm, vì thế, ông có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm ghi đúng toàn bộ nội dung đơn khởi kiện. Đồng thời tổ chức lấy mẫu lại, có sự chứng kiến của Viện KSND, cũng như thành lập hội đồng lấy mẫu để đảm bảo tính trung thực, khách quan, nhất là việc xác định huyết thống giữa ông và chị N.T.H.N, anh N.H.S.
Tại cấp phúc thẩm, đã thành lập hội đồng tiến hành lấy mẫu 6 lần (từ tháng 10/2014-7/2015) tại trụ sở TAND tỉnh có sự tham gia của Viện KSND tỉnh và Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Phú Yên. Trong 6 lần lấy mẫu, ông T đều có mặt, riêng phía bị đơn là chị N và anh S cả 6 lần đều vắng mặt không lý do, không hợp tác. Bên cạnh đó, ông T có đơn yêu cầu: “Vụ án này phải lấy mẫu AND lại mới xét xử khách quan”. Đồng thời, ông T đề nghị hủy án sơ thẩm và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa và ủy quyền cho luật sư bảo vệ quan điểm của mình.
Tại phiên xử phúc thẩm mới đây, trong phần tranh luận, luật sư Nguyễn Trần Phương Thảo (Văn phòng Luật sư Cẩm Hòa, Đoàn Luật sư Bình Định), bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn của ông T, đã đặt câu hỏi với hội đồng xét xử: Vì sao bị đơn là chị N.T.H.N, anh N.H.S nói là con của nguyên đơn triệu tập 6 lần đến tòa để thực hiện việc lấy mẫu nhưng đều vắng mặt không lý do? Nếu sự thật là con của nguyên đơn thì việc lấy mẫu càng đảm bảo quyền lợi cho bị đơn. Sao bị đơn cố tình không hợp tác và chấp hành đúng quy định của pháp luật? Đồng thời, luật sư Thảo cũng viện dẫn ra những sai phạm của cấp sơ thẩm nên đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Trái ngược với quan điểm bào chữa của nguyên đơn, luật sư bảo vệ cho bị đơn Nguyễn Hương Quê (Văn phòng Luật sư Phúc Luật) nêu rằng: “Ngày 14/1/2013, việc lấy thiếu mẫu máu của các đương sự nên tòa không gửi mẫu và quyết định trưng cầu giám định. Đến ngày 21/3/2013, sau khi lấy đủ mẫu đã tiến hành gửi phong bì đựng mẫu và có đầy đủ chữ ký niêm phong của đương sự và người làm chứng. Do đó, việc gửi trưng cầu vào ngày 25/3/2013 kèm theo mẫu là đúng pháp luật”. Luât sư Quê cũng phân tích thêm: “Nếu giám định lại chị N và anh S không phải là con của ông T thì chồng của bị đơn có thể sẽ ly dị, vì chị N không có cha và không có một lý lịch rõ ràng nên ảnh hưởng đến sự nghiệp của chồng chị N. Đồng thời, tuy cấp sơ thẩm có thiếu sót trong trình tự lấy mẫu để trưng cầu giám định AND nhưng cũng không cần thiết phải hủy án sơ thẩm mà bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm”.
Từ những chứng cứ có tại hồ sơ, cũng như tranh luận của nguyên đơn, bị đơn và luật sư, kết thúc phiên phúc thẩm, hội đồng xét xử phúc thẩm đã bác đơn của ông T về việc yêu cầu không công nhận chị N và anh S là con của ông. Tuy nhiên, hiện nay, do những thiếu sót trong quá trình tố tụng, kết quả giám định ADN để xác định huyết thống cho nên vụ việc vẫn chưa có hồi kết và nguyên đơn đang kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm.
VĂN TÀI