* Hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn được 9 tháng. Do một số mâu thuẫn nên vợ chồng tôi quyết định ly hôn. Khi tôi về nhà chồng, ba mẹ chồng tôi mua cho tôi 1 chiếc xe máy đăng ký bằng tên tôi. Hôm cưới, vợ chồng tôi được cô, dì, chú, bác nhà chồng và ba mẹ chồng tặng khoảng 4 cây vàng. Nhưng số vàng đó cưới xong mẹ chồng tôi bảo để bà giữ cho và vợ chồng tôi đã đưa cho mẹ chồng cầm. Khi quyết định ly hôn, tôi có hỏi đến 2 tài sản đó, nhưng mẹ chồng tôi nói chiếc xe mặc dù đứng tên tôi nhưng là tài sản do ba mẹ chồng mua nên tôi không có quyền lấy vì ba mẹ chồng tôi chưa viết giấy chuyển nhượng. Vì vậy chiếc xe đó ba mẹ chồng tôi vẫn giữ, còn giấy tờ xe thì tôi cầm. Còn 4 cây vàng thì ba mẹ chồng tôi cho vợ chồng tôi đi tuần trăng mật là 5 triệu đồng và tiền bảo vệ luận văn là 12 triệu đồng nên cũng hết rồi. Nhưng theo như lúc chưa xảy ra mâu thuẫn thì tiền đi tuần trăng mật mà ba mẹ chồng tôi cho là tiền riêng không liên quan tới vàng của chúng tôi, còn 12 triệu đồng bảo vệ luận văn là chồng tôi vay của mẹ chồng và chúng tôi đã trả rồi. Trong quá trình chung sống vợ chồng, tôi cũng tích cóp được 10 triệu đồng là tiền lương của vợ chồng tôi chi tiêu còn lại. Số tiền này tôi đang giữ.
Vậy tôi có quyền được nhận tài sản nào trong 3 tài sản trên không? Việc nhận tài sản đó như thế nào? Sau khi ly hôn, tôi có được bồi thường chi phí ở và làm việc cho nhà chồng không? Về chiếc xe máy, tôi vẫn đang giữ giấy tờ xe. Còn chiếc xe đó thì để ở nhà chồng. Liệu nhà chồng tôi có báo với cơ quan là mất giấy tờ xe để làm lại giấy tờ xe mang tên nhà chồng tôi không? Vì chồng tôi vẫn giữ chứng minh thư photo của tôi và chụp ảnh chứng minh thư gốc của tôi rồi.
Nguyễn Thị Hồng (huyện Sơn Hòa)
* Trả lời:
Căn cứ Điều 33, Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung, tài sản riêng như sau:
“Điều 33 về tài sản chung của vợ chồng:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Điều 43 về tài sản riêng của vợ, chồng:
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của luật này”.
Như vậy, theo quy định pháp luật thì tài sản chung của vợ chồng bạn là số tài sản được hình thành sau thời kỳ hôn nhân, bao gồm: 4 cây vàng là quà được tặng cho khi cưới và 10 triệu đồng tiền lương của vợ chồng. Về chiếc xe máy là tài sản được ba mẹ chồng tặng cho trong thời kỳ hôn nhân được đứng tên riêng bạn, trong trường hợp nếu bạn chứng minh ba mẹ chồng tặng cho riêng bạn thì đây là tài sản riêng của bạn nhưng nếu không chứng minh được thì tài sản này là tài sản chung của 2 vợ chồng được ba mẹ chồng tặng cho chung, việc bạn đứng tên đăng ký xe không thể chứng minh được đó là tài sản của riêng bạn.
Về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
- Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác…
Như vậy, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng nguyên tắc chia đôi và bạn cũng không được bồi thường chi phí ở và làm việc cho nhà chồng.
LS NGUYỄN HƯƠNG QUÊ
(Văn phòng Luật sư Phúc Luật)